Chan Dung Nha Van (Xuan Sach NXB Van Hoc).html
      Chân dung nhà văn
      Xuân Sách
      
      Mục Lục 
      Tâm sự của tác giả
      100 Bài Thơ Chân Dung
      Lời cuối sách
        
      Tâm sự của tác giả 
 Những bài thơ chân dung các nhà văn của tôi ra đời trong trường hợp rất tình cờ. Hồi ấy, bước vào thập kỉ 60, tôi đang độ tuổi ba mươi, từ đơn vị được chuyển về Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ở ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế, Hà Nội. Ngoài công việc của toà soạn tờ báo ra, thời gian của chúng tôi dành nhiều cho việc học tập chính trị. Những vấn đề thời sự trong nước, thế giới, những đường lối, chỉ thị nghị quyết, những vấn đề tư tưởng lâu dài và trước mắt… đều phải học tập nghiêm túc, có bài bản. Học một ngày, hai ngày, có khi cả tuần, cả tháng. Lên lớp, thảo luận, kiểm điểm, làm sao cho mỗi đợt học, kiến thức và tư tưởng của từng người phải được nâng cao lên một bước. Những buổi lên lớp tập trung trên hội trường gồm hàng ngàn sĩ quan, anh em văn nghệ sĩ, các nhà văn, các hoạ sĩ, nhạc sĩ… thường ngồi tập trung với nhau ở những hàng ghế cuối hội trường thành một "xóm" văn nghệ. Để chống lại sự mệt mỏi phải nghe giảng về hai phe bốn mâu thuẫn, về ba dòng thác cách mạng, về kiên trì, t!   ăng cường, nỗ lực, quyết tâm… mấy anh em văn nghệ vốn quen thói tự do thường rì rầm với nhau những câu chuyện tào lao, hoặc che kín cho nhau để hút một hơi thuốc lá trộm, nuốt vội khói, nhiều khi ho sặc sụa. Nhưng rồi những chuyện đó cũng bị phát hiện, bị nhắc nhở phê bình. Vậy phải thay đổi, chuyển sang bút đàm. 
 Vào năm 1962, có đợt học tập quan trọng, học nghị quyết 9, nghị quyết chống xét lại, chống tư tưởng hoà bình chủ nghĩa, và dĩ nhiên văn nghệ là đối tượng chú ý trong đợt học này. Hội trường tập trung đông, trời nắng, hơi nóng từ cái sân xi măng hắt lên như thiêu như đốt. Quân đội đang tiến lên chính quy, hiện đại, ăn mặc phải chỉnh tề, đầy đủ cân đai bối tử, đi giầy da, những đôi giầy cao cổ năng như cùm. Bọn tôi, trừ vài trường hợp như Vũ Cao, Nguyễn Khải có đôi chân quá khổ, có cớ chưa có giầy đúng số để đi dép, nhưng cũng là những đôi dép có quai hậu, ngồi học cũng không được tụt quai. Nhân đây tôi nói thêm về Vũ Cao, ông là người có biệt danh "quanh năm đi chân đất", ở nhà số 4 các phòng sàn ván đều được lau bóng để đánh trần nằm xuống mà viết. Qui định của phòng là phải bỏ dép trừ… Vũ Cao, bởi để ông đi dép vào phòng còn sạch hơn đi chân trần. Giờ đây ngồi học được ưu tiên đi dép vẫn là nỗi cực khổ đối với ông. 
 Trong buổi lên lớp như thế, Nguyễn Trọng Oánh xé vỏ bao thuốc lá Tam Đảo viết một bài thơ bằng chữ Hán trao cho tôi, ở VNQĐ Oánh được gọi là ông Đồ Nghệ giỏi chữ Hán, và tôi được gọi là ông Đồ Thanh bởi cũng võ vẽ đôi ba chữ thánh hiền. Oánh bảo tôi dịch !   bài thơ!    Oánh viết vịnh Xuân Thiều. Xuân Thiều cũng ở lứa tuổi chúng tôi nhưng trông già dặn vì cái đầu hói, tóc lơ thơ. Con đường văn chương mới bước vào còn lận đận. Mới in được tập truyện ngắn đầu tay Đôi vai, tập tiểu thuyết Chuyển vùng viết về cuộc chiến đấu chống Pháp ở Bình Trị Thiên mà Thiều tham dự, đã sửa chữa nhiều lần, đưa qua vài ba nhà xuất bản chưa "nhà" nào chịu in. 
 Tôi thấy bài thơ Oánh viết rất hay và dịch. 
      Văn nghiệp tiền trình khả điếu quân 
 Mao đầu tận lạc tự mao luân 
 Lưỡng kiên mai liễu phong trần lý 
 Chuyển địa hà thời chuyển khắc ngân.
      
 Dịch nghĩa: 
      Con đường văn nghiệp khá thương cho ông 
 Lông đầu ông đã rụng trơ trụi 
 Đôi vai lầm lũi trên con đường gió bụi 
 Chuyển vùng đến bao giờ thì chuyển thành tiền được?
      
 Dịch thơ: 
      Con đường văn nghiệp thương ông 
 Lông đầu rụng hết như lông cái đầu 
 Đôi vai gánh mãi càng đau 
 Chuyển vùng nào nữa làm sao thành tiền?
      
 Dịch xong tôi chuyển bài thơ cho anh em đọc. Oánh tỉnh bơ với bộ mặt lạnh lùng cố hữu, còn mọi người phải nén cười cho khỏi bật thành tiếng. Nguyễn Minh Châu gục xuống bàn kìm nén đến nỗi mặt đỏ bừng và nước mắt dàn dụa. 
 Tự nhiên trong đầu tôi loé lên cái ý nghĩ mà người ta thường gọi là "tia chớp". Thơ chân dung! Trong bài thơ Oánh phác hoạ một Xuân Thiều với hình dáng và văn nghiệp bằng cách dùng nghĩa kép tên tác phẩm: Đôi vai; Chuyển vùng. Và sau chốc lát, tiếp tục trò đùa của Oánh tôi viết bài thơ về Hồ Phương, đang ngồi cạnh tôi, và bài thơ số một về chân dung các nhà văn ra đời. Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả in nhiều tác phẩm, đã được một số giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi dùng các tên các tập truyện của anh: Trên biển lớn; Xóm mới; Cỏ non và tên cái truyện ngắn đầu tay vẫn được nhắc đến "Thư nhà". Tôi viết bài thơ ra mẩu giấy: 
      Trên biển lớn lênh đênh sóng nước 
 Ngó trông về Xóm mới khuất xa 
 Cỏ non nay chắc đã già 
 Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem
      
 Tôi đưa bài thơ cho Nguyễn Khải. Anh đọc xong trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đợi. Anh bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyển cho người khác. Đến giờ giải lao chúng tôi ra ngồi quanh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa bài thơ cho Hồ Phương đọc. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng của anh hơi run. Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh: "Thằng này (chỉ tôi) ghê quá, không phải trò đùa nữa rồi!" 
 Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng đó chỉ là trò chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa thông thường bài thơ còn chạm vào tính cách và đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn thì có gì quan trọng hơn là tính cách và tác phẩm. Bài thơ ngụ ý Hồ Phương viết nhiều chăng nữa vẫn không vượt qua được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ: "Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem…" 
      *
      
 Trước đấy, khi còn là lính địa phương, cái xã hội nhà văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đấy là những con người dị biệt, rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến, dường như họ là một "siêu tầng lớp" trong xã hội. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, lời nói của họ đều có thể trở thành giai thoại, và cả tật xấu nữa, dường như cũng đứng ngoài vòng phán xét thông thường. Tóm lại đó là một thế giới đầy sức hấp dẫn đối với một người say mê văn học và tấp tểnh nuôi mộng viết văn như tôi. Khi tôi được về Hà Nội vào một cơ quan văn nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh nước ta quân đội có một vị trí đặc biệt trong xã hội kể cả lĩnh vực văn chương) tôi bắt đầu đi vào thế giới mà trước đây tôi mơ ước. Điều tôi nhận ra là ngoài cái phần tôi hiểu trước đây thì thế giới nhà văn còn có những chuyện khác. Đấy là cái mặt đời thường, cái mặt rất chúng sinh, và chúng cũng góp phần quan trọng làm nên các tác phẩm và tính cách nhà văn. Vì vậy chân dung của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa nếu "vẽ" được chính xác những bức chân dung đó, thì bộ mặt xã hội của thời đại họ đang sống, đang viết cũng qua đó mà hiện lên. Có thể, tôi nghĩ, không có tầng lớp nào hơn các nhà văn, thể hiện rõ nhất bộ mặt tinh thần của dân tộc qua từng giai đoạn. Những điều này tôi nhận ra sau một thời gian dài, khi những bài thơ chân dung lần lượt ra đời, được phổ biến một cách không chính thức nhưng sâu rộng và dai dẳng, vượt qua cả mong muốn của tôi. 
 Cũng chính các nhà văn giúp tôi nhiều trong sán!   g tác cũng như phổ biến các bài thơ. Bởi khi nhận xét về tính cách con người, tính cách các nhà văn thì không ai sắc sảo bằng các nhà văn. Người giúp tôi nhiều nhất là anh Nguyễn Khải. Anh có mối quan hệ rộng rãi trong giới, có lối nhận xét rất sắc sảo, chính xác dù có đôi lúc cực đoan. Anh không mấy thích thơ, nhưng anh lại thích những chân dung nhà văn. Anh có nói đại ý là các nhà văn chúng ta quen đánh giá nhận xét mọi tầng lớp người trong xã hội, thì cũng cần tự đánh giá giới mình, cũng đều có cái tốt cái xấu như ai. Về sau thêm anh Vương Trí Nhàn về Văn nghệ Quân đội. Nhà phê bình văn học trẻ tuổi này hết sức cổ suý tôi, đôi khi anh còn thách đố. Chúng tôi thường ngồi trong cái phòng "toilet" khoảng ba mét vuông. Do hệ thống bơm nước lên tầng hai bị hỏng, nên cái phòng vệ sinh đó biến thành "phòng văn", nó được ốp gạch men trắng bóng lau sạch ngồi thật mát và thoải mái kín đáo. Có những hôm Nhàn mua sẵn vài điếu thuốc lá lẻ, vài cái kẹo lạc, một ấm trà ngon, rồi thách thức tôi viết ngay tại chỗ. Và đã có nhiều bài thơ ra đời như thế. Nhàn nói: "Những bài thơ này ông Sách viết ra khi có con quỉ ám vào ông ấy". Bởi vì Nhàn đánh giá tôi có một giọng điệu khác hẳn trong những sáng tác không phải thơ chân dung. Nhàn là người rất thuộc thơ, và khi bài thơ tôi làm xong thường thì anh là người phổ biến rộng rãi. Một số anh em trẻ khác như các anh Định Nguyễn, Trần Hoàng Bách thường đem những bài thơ đi phổ biến để được chiêu đãi bia hơi. Có thể nói đó là "nhuận bút" đầu tiên, nhưng không thuộc về người sáng tác mà thuộc về người phát hành. 
!    Tất nhiên những bài thơ đó được phổ biến rộng rãi trong giới. Lúc đầu còn kín đáo, nhưng dần dần thành công khai, và nhất là thành một "tiết mục" không thể thiếu trong những buổi liên hoan của anh em văn nghệ. Có một buổi cũng khá đông đủ các nhà văn, khi đã vào tiệc rượu, mọi người yêu cầu tôi đọc về các nhà văn có mặt. Trong không khí như vậy thì dù các anh chị ấy có giận cũng cười xoà làm vui, riêng tôi thấy mình là được trò vui cho mọi người cũng hay chứ sao nữa. Tôi nhớ sau buổi vui anh Nguyễn Đình Thi có nói đại ý nên đem cái tài đó làm những việc có ích hơn là châm chọc nhau. Ngay đó một anh ngồi bên cạnh rỉ tai tôi: "Châm chọc cũng cần có tài và có ích lắm chứ" 
 Những bài thơ được lan truyền trong nhiều giới khác. Hồi đó tướng Lê Quang Đạo là phó chủ nghiệm Tổng cục chính trị, cấp trên của giới văn nghệ quân đội, ông rất thích những bài thơ chân dung, thường trong giờ nghỉ những buổi họp với giới văn nghệ ông đề nghị đọc cho ông nghe. Sự thích thú tuy có tính cách cá nhân nhưng rất hay cho tôi. Tôi cũng nhận được nhiều phản ứng khác nhau, có khi khen quá lời, có khi bực tức. Tôi kể ra vài trường hợp đặc biệt. Khi tôi đã tìm hiểu được những ứng xử, những tính cách của các nhà văn, ngoài những tác phẩm của họ mà tôi hằng ngưỡng mộ, tôi cứ băn khoăn tự hỏi: Sao thế nhỉ? Với bề dày tác phẩm như thế, với vị trí trong xã hội như thế, sao họ còn ham muốn những thứ phù phiếm đến thế, một chức vụ, một quyền lực, một chuyến đi nước ngoài… mà đã ham muốn thì phải mưu mẹo, phải dối trá, và nhất là phải s�!   � hãi. M!   ột lần trên báo đăng bài thơ dài của một nhà thơ có tên tuổi viết theo "thời tiết" chính trị, quay ngược lại những điều vừa viết chưa lâu, Nguyễn Khải chỉ bài thơ nói với tôi: "Rất tiếc, một tài năng lỡ tàu". 
 Tôi không nghĩ mình đứng ngoài cuộc để phán xét, mà muốn làm cặp mắt thứ hai trong mỗi bài thơ để tự bạch, tự cảm thông với mình và cũng tự giận mình. Tôi vốn yêu thích và kính phục tài thơ Chế Lan Viên, nhưng bài thơ tôi viết về ông lại nói khía cạnh khác. Mỗi lần gặp lại tôi ông lại tỏ ra rất thân thiện. Điều đó làm cho tôi bối rối, phải chăng ông đã hiểu điều gì đó về ông về tôi. Lúc ông Hoài Thanh già yếu phải vào bệnh viện tôi đến thăm ông. Ông không giận tôi nữa, còn cho tôi là người có tình và ông thấy những gì viết về ông có phần đúng, ông đề nghị chữa một chữ trong bài thơ. Khi ông mất, tôi đi viếng, nhìn khuôn mặt ông qua tấm kính, và các con ông oà khóc, tôi bỗng thấy mình như người có tội. 
 Một lần tôi gặp Xuân Diệu trong quán bia hơi, tôi nâng cốc bia đến chúc mừng ông vừa được bầu làm viện sĩ của Viện Hàn lâm nghệ thuật nước CHDC Đức, ông chạm cốc: "Chúc mừng họ Ngô nhà ta, những bài thơ của cậu đã đi vào cõi bất tử" 
 Điều tôi không ngờ là cụ Đăng Thai Mai cho người gọi tôi đến nhà bảo tôi đọc thơ chân dung cho cụ nghe. Con người nổi tiếng uyên bác thâm trầm ấy, ngồi đặt cằm lên gối cười khục khục. Đột ngột cụ ngước cặp mắt tinh anh lên nhìn tôi: "Thế còn Đặng Thai Mai?". Tôi lúng túng: "Viết về bác rất khó, cháu đang suy nghĩ, thưa bác". Dường như ông cụ không tin !   lời tô!   i. Ít lâu sau cụ lại gọi tôi đến: "Anh viết về tôi rồi chứ?". 
 Trước tôi chỉ nghĩ cụ không để ý đến trò chơi chữ ngông nghênh này, hoá ra cụ quan tâm thật sự, khiến tôi vừa cảm động vừa thích thú. Nhưng biết làm sao được, viết về cụ rất khó và đến nay tôi vẫn chưa viết được. 
 Còn cụ Nguyễn Tuân, con người thích đùa một cách cao sang và thâm trầm, thích ăn nem rán nóng bỏng thì gắp lên đặt xuống cái nem nghe thơ và phán: "Hóm, thằng này hóm!". 
 Nói về đồng nghiệp cũng là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là của một thời. Câu thơ: "Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm" đâu phải là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết, tôi nghĩ, nhà văn là đại diện của một thời, là lương tri của thời đại. Đã đành khó ai vượt được thời đại mình đang sống, không dễ nói hết, nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật đau lòng khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, cong lưng quì gối trước quyền uy, mê muôi vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết, nếu có nói quá cũng dễ hiểu, cái con "quỉ ám" nếu có thì cũng là sản phẩm của những cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời cũng như trong nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗi đau. 
 Những bài thơ chân dung đã có cuộc sống riêng của nó, không phải kì lạ nhưng cũng độc đáo. Nó được lưu truyền đến nay đã ba mươi năm. Đã có nhiều bài "khảo dị", nhiều bài "ngoài luồng" cũng được gán cho tác giả, bây giờ in ra coi như một sự đính chính. Nó cũng là "một cái gì!    đó" n!   hư có người nói nên mới tồn tại được, nếu nó có ích thì tác giả cũng lấy làm mãn nguyện. 
Ngày xuân Nhâm Thân 
 Xuân Sách
                
      1. 
 Trên biển lớn lênh đênh sóng nước 
 Ngó trông về xóm mới khuất xa 
 Cỏ non nay chắc đã già 
 Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem 
 2. 
 Xung kích tràn lên nước vỡ bờ 
 Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ 
 Bay chi mặt trận trên cao ấy 
 Quên chú nai đen vẫn đứng chờ. 
 3. 
 Dế mèn lưu lạc mười năm 
 Để o chuột phải ôm cầm thuyền ai 
 Miền Tây sen đã tàn phai 
 Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang. 
 4. 
 Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ 
 Sóng gầm sông Lấp mấy ai hay 
 Cơn bão đến động rừng Yên Thế 
 Con hổ già uống rượu giả vờ say. 
 5. 
 Bác Kép Tư Bền rõ đến vui 
 Bởi còn tranh sáng bác nhầm thôi 
 Bới tung đống đống rác nên trời phạt 
 Trời phạt chưa xong bác đã cười. 
 6. 
 Vang bóng một thời đâu dễ quên 
 Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên 
 Chén rượu tình rừng cay đắng lắm 
 Tờ hoa lại trút lệ ưu phiền. 
 7. 
 Các vị La hán chùa Tây phương 
 Các vị già quá tôi thì béo 
 Năm xưa tôi hát vũ trụ ca 
 Bây giờ tôi hát đất nở hoa 
 Tôi hát chiến tranh như trẩy hội 
 Đừng nên xấu hổ khi nói dối 
 Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu 
 8. 
 Hai đợt sóng dâng một khối hồng 
 Không làm trôi được chút phấn thông 
 Chao ơi ngói mới nhà không mới 
 Riêng còn chẳng có, có gì chung. 
 9. 
 Quá tuổi hoa niên đã bạc đầu 
 Tình còn dang dở tận Hàng Châu 
 Khúc ca mới hát sao buồn thế 
 Hai nửa yêu thương một nửa sầu 
 10. 
 Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn !   
 Ta nghĩ tới vàng sao từ thuở ấy 
 Chim báo bão, lựa chiều cơn gió dậy 
 Lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa 
 Thay đổi cả cơn mơ 
 Ai dám bảo con tầu không mộng tưởng 
 Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng 
 Lòng ta cũng như tầu, ta cũng uống 
 Mặt anh em trong suối cạn hội nhà văn 
 11. 
 Trăng sáng soi riêng một mặt người 
 Chia ly đôi bạn cách phương trời 
 Ước mơ của đất anh về đất 
 Im lặng mà không cứu nối đời. 
 12. 
 Nên danh nên giá ở làng 
 Chết vì ông lão bên hàng xóm kia 
 Làm thân con chó xá gì 
 Phận đành xấu xí cũng vì miếng ăn. 
 13. 
 Một nắm xương khô cũng gọi mỡ 
 Quanh năm múa bút để mua vui 
 Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước ngược 
 Nào ngờ trở gió lại trôi xuôi. 
 14. 
 Phất rồi ông mới ăn khao 
 Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời 
 Ông đồ phấn, ông đồ vôi 
 Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng. 
 15. 
 Vị nghệ thuật nửa cuộc đời 
 Nửa đời sau lại vị người ngồi trên 
 Thi nhân còn một chút duyên 
 Lại vò cho nát lại lèn cho đau 
 Bình thơ tới thuở bạc đầu 
 Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình 
 Giật mình mình lại thương mình 
 Tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan. 
 16. 
 Vốn cùng nhân dân tiến lên 
 Mùa đông năm ấy bỏ quên cờ đào 
 Quay về núp bóng ca dao 
 Giật mình nghe một tiếng chào 
      Văn Ngan?
      
 17. 
 Hỏng đôi mắt phải đâu là mất hết 
 Trong cặp còn hồ sơ điệp viên 
 Ông cố vấn chẳng sợ gì cái chết 
 Cao điểm cuối cùng quyết chí xông lên. 
 18. 
 Đám cháy ở sau lưng 
 Đám cháy ở trước mặt 
 Than ôi mày chạy đâu 
 Dưới vòm trời quen thuộc 
 Đốt bao nhiêu cỏ mật 
 Không bay mùi thơm tho 
 Càng hun càng đỏ mắt 
 Quay về thung lũng cò. 
 19. 
 Mải hái hoa dọc chiến hào 
 Bỏ quên chồi biếc lúc nào không hay 
 Thói quen cũng lạ lùng thay 
 Trồng cây táo lại mọc cây bạch đàn 
 20. 
 Trường Sơn đông em đi hái măng 
 Trường Sơn tây anh làm thơ cho lính 
 Đời có lúc bay lên vầng trăng 
 Lại rơi xuống chiếc xe không kính 
 Thế đấy! Giữa chiến trường 
 Nghe tiếng bom cũng mạnh! 
 21. 
 Thao thức năm canh nghĩ chẳng ra 
 Trò chơi nguy hiểm đấy thôi mà 
 Lửng lơ giữa khoảng trong xanh ấy 
 Để mối đùn lên cái gốc già. 
 22. 
 Trời thí cho ông vụ lúa chiêm 
 Ông xây sân gạch với xây thềm 
 Con đường mòn ấy ông đi mãi 
 Lưu lạc lâu ngày mất cả tên. 
 23. 
 Hai lần lỡ bước sang ngang 
 Thương con bướm đậu trên dàn mồng tơi 
 Trăm hoa thân rã cánh rời 
 Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ. 
 24. 
 Nhọc nhằn theo bước con trâu 
 Hỡi người áo trắng nông sâu đã từng 
 Mỗi bước đi một bước dừng 
 Mà sao vẫn lạc giữa rừng U Minh. 
 25. 
 Mấy lần đất nước đứng lên 
 Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm 
 Hại thay một mạch nước ngầm 
 Cuốn trôi Đất Qu�!   �ng lẫn rừng Xà Nu. 
 26. 
 Từ trong hom giỏ chui ra 
 Đã toan gánh vác sơn hà chị ơi 
 Định đem cái lạt buộc người 
 Khổ thân ông lão vịt trời phải chăn. 
 27. 
 "Sông Mã xa rồi tây tiến ơi…" 
 Về làm xiếc khỉ với đời thôi 
 Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm 
 Sống tạm cho qua một kiếp người. 
 "Áo sờn thay chiếu anh về đất" 
 Mây đầu ô trắng, Ba Vì xanh 
 Gửi hồn theo mộng về tây tiến 
 Sông Mã gầm lên khúc độc hành. 
 28. 
 Tưởng chuyện như đùa hoá ra thật 
 Biết ông sằng phẳng tự bao giờ 
 Cái con thò lò quay sáu mặt 
 Vồ hụt mấy lần ông vẫn trơ. 
 29. 
 Cha và con… và họ hàng và… 
 Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạc 
 Cho nên chiến sĩ thiếu lương ăn 
 Họ sống chiến đấu càng khó khăn 
 Tháng ba ở Tây Nguyên đỏ lửa 
 Tháng tư lại đi xa hơn nữa 
 Đường đi ra đảo đường trong mây 
 Những người trở về mấy ai hay 
 Xung đột mỗi ngày thêm gay gắt 
 Muốn làm cách mạng nhưng lại dát! 
 30. 
 Đường chúng ta đi trong gió lửa 
 Còn mơ chi tới những cánh buồm 
 Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất 
 Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm. 
 31. 
 Tấm áo hào hoa bạc gió mưa 
 Anh thành đồng chí tự bao giờ 
 Trăng còn một mảnh treo đầu súng 
 Cái ghế quan trường giết chết thơ. 
 32. 
 Bao năm ngậm ngải tìm trầm 
 Giã từ quê mẹ xa dòng Hương giang 
 Bạc đầu mới biết lạc đường 
 Tay không nay lại vẫn hoàn tay không 
 Mộng làm giọt nước ôm sông 
 Ôm sông chẳng được, tơ lòng gió bay 
 33.  Một!    con trâu bạc già nua 
 Nhờ cơn bão biển thổi lùa lên mây 
 Trâu ơi ta bảo trâu này 
 Quay về đất mặn kéo cày cho xong. 
 34. 
 Tài ba thằng mõ cỡ chuyên viên 
 Chia xôi chia thịt lại chia tiền 
 Việc làng việc nước là như vậy 
 Lộn xộn cho nên phải tắt đèn. 
 35. 
 Em còn đôi mắt ngây thơ 
 Sống mòn mà vẫn đợi chờ tương lai 
 Thương cho thị Nở ngày nay 
 Kiếm không đủ rượu làm say Chí Phèo! 
 36. 
 Xoắn mãi dây tình thơ bật ra 
 Paris thì thích hơn ở nhà 
 Đông y ắt hẳn hơn tây dược 
 Xe tải không bằng xe Volga 
 Trên đời kim cương là quí nhất 
 Thứ đến tình thương dân nghèo ta 
 Em chớ cho anh già lẩm cẩm 
 Còn hơn thằng trẻ lượn Honda. 
 37. 
 Em không nghe mùa thu 
 Mùa thu chỉ có lá 
 Em không nghe rừng thu 
 Rừng mưa to gió cả 
 Em thích nghe mùa xuân 
 Con nai vàng ngơ ngác 
 Nó ca bài cải lương. 
 38. 
 Một mặt đường khát vọng 
 Cuộc chiến tranh đi qua 
 Rồi trở lại ngôi nhà 
 Đốt lên ngọn lửa ấm 
 Ngủ ngon a kai ơi 
 Ngủ ngon a kai à… 
 39. 
 Anh Keng cưới vợ tháng mười 
 Những đứa con lại ra đời tháng năm 
 Trong làng kháo chuyện rì rầm 
 Vụ mùa chưa gặt thóc đã nằm đầy kho. 
 40. 
 Ấy bức tranh quê đẹp một thời 
 Má hồng đến quá nửa pha phôi 
 Bên sông vải chín mùa tu hú 
 Khắc khoải kêu chi suốt một đời. 
 41. 
 Đôi vai thì gánh lập trường 
 Đôi tay sờ soạng ven đường cuối thôn 
 Nghe anh kể chuyện đầu nguồn 
 Về nhà thấy mất cái hồn của em. 
 42. 
 Nhá nhem khoảng s!   áng tron!   g rừng 
 Để cho cuộc thế xoay vần hơn thua 
 Xác xơ màu tím hoa mua 
 Lửa chân sóng báo mây mưa suốt ngày. 
 43. 
 Chị Tư Hậu đẻ ra anh 
 Ví như hòn đất nặn thành đứa con 
 Biển xa gió dập sóng dồn 
 Đất tan thành đất chỉ còn giấc mơ. 
 44. 
 Đi bước nữa rồi đi bước nữa 
 Phấn son mưa nắng đã tàn phai 
 Cái kiếp đào chèo là vậy đó 
 Đêm tàn bạn cũ chẳng còn ai. 
 45. 
 Đã đi qua một thời giông tố 
 Qua một thời cơm thầy cơm cô 
 Còn để lại những thằng Xuân tóc đỏ 
 Vẫn nghênh ngang cho đến tận bây giờ. 
 46. 
 Thơ ông tang tính tang tình 
 Cây đa bến nước mái đình vườn dâu 
 Thân ông mấy lượt lấm đầu 
 Miếng mồi danh lợi mắc câu vẫn thèm. 
 47. 
 Bắt đầu từ lão nghị hụt 
 Cầm dao giết một mạng người 
 Chị Nhàn phải đi bước nữa 
 Lấy đại đội trưởng của tôi 
 Cuộc đời mấy phen nổi gió 
 Phải đem tổ quốc thề bồi 
 Lần này ông ra ứng cử 
 Chắc là trúng nghị viên thôi. 
 48. 
 Ông năm Hạng trở về đất lửa 
 Với chiếc lược ngà vượt Trường Sơn 
 Bỗng mùa gió chướng vừa nổi dậy 
 Ông biến thành thằng nộm hình rơm. 
 49. 
 Có những lớp người đi vỡ đất 
 Mùa mưa không trồng lúa trồng ngô 
 Lại gieo hạt bông hường bông cúc 
 Trên mảnh đất này hoa héo khô. 
 50. 
 Chuyện kể cho người mẹ nghe 
 Biển lửa bốc cháy bốn bề tan hoang 
 Đứa con nuôi của trung đoàn 
 Phá vây xong lại chết mòn trong vây.
      51. 
 Đất làng vừa một tấc 
 Bao nhiêu người đến cày 
 Thóc giống còn mấy hạt 
 Đợi mùa sau sẽ hay. 
 52. 
 Sớm nay nhấp một chén trà 
 Bâng khuâng tự hỏi đâu là núi đôi 
 Những người cùng làng với tôi 
 Muốn sang đèo trúc muộn rồi, đừng sang. 
 53. 
 Biên kia biên giới anh sang 
 Trước giờ nổ súng về làng làm chi 
 Mẫn và tôi tính chi li 
 Gia đình má Bảy lấy gì nuôi anh. 
 54. 
 Anh chẳng còn sống mãi 
 Với thủ đô luỹ hoa 
 Để những người còn lại 
 Bốn năm sau khóc oà. 
 55. 
 Chim chơ rao cất cánh ngang trời 
 Tình như chớp trắng nháy liên hồi 
 Đám mây cánh vạc tan thành nước 
 Mà đất ba dan vẫn khát hoài. 
 56. 
 Sinh ra trong gió cát 
 Đất Nghệ An khô cằn 
 Bao nhiêu năm nằm vạ 
 Trước cửa hội nhà văn. 
 57. 
 Đem than từ vùng mỏ 
 Về bán tận thủ đô 
 Bị đập chiếc cán búa 
 Hoá ra thằng ngẩn ngơ. 
 58. 
 Tưởng anh dọn về làng xưa 
 Ngờ đâu về tận thủ đô nhận nhà 
 Sướng cái bụng lắm lắm à 
 Đêm là đèo gió, ngày là Hồ Tây. 
 59. 
 Với tiếng sáo thiên thai dìu dặt 
 Mở ra dòng thơ mới cho đời 
 Bỏ rừng già về vườn bách thú 
 Con hổ buồn lặng lẽ trút tàn hơi. 
 60. 
 Cửa sông cất tiếng chào đời 
 Rồi ra đi những vùng trời khác nhau 
 Dấu chân người lính in mau 
 Qua miền cháy với cỏ lau bời bời 
 Đọc lời ai điếu một thời 
 Tan phiên chợ Giát hồn người về đâu? 
 61. 
 Nếu Trương Lương không thổi địch sông Ô 
 Liệ!   u Hạng Võ có lên ngôi hoàng đế? 
 Nhưng buồn thay đã đánh mất Ngu Cơ 
 Đời còn gì, và thơ cũng thế. 
 62. 
 "Xưa tôi yêu quê hương vì có chim có bướm 
 Có những ngày trốn học bị đòn roi" 
 Nay tôi yêu quê hương vì có ô che nắng 
 Có ghế ngồi viết những điệu thơ vui. 
 63. 
 Nhen lên một bếp lửa 
 Mong soi gương mặt người 
 Bỗng cơn giông nổi dậy 
 Mây che một khung trời 
 Đất sau mưa hỡi đất 
 Màu mỡ trôi về đâu 
 Còn trơ chiếc guốc võng 
 Trăng mài mòn canh thâu. 
 64. 
 Một chút hương thơm trải bốn mùa 
 Mười năm lăn lóc chốn rừng già 
 Quay về khứng chịu cơn mưa móc 
 Đất trắng mưa rồi đất lại khô. 
 65. 
 Xưa thơ anh viết không người hiểu 
 "Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà" 
 Nay anh chưa viết người đã hiểu 
 Sắp sáng thì nghe có tiếng gà. 
 66. 
 Người đi, ừ nhỉ người đi thật 
 Đi thật nhưng người lại trở về 
 Nhẹ như hạt bụi, như hơi rượu 
 Mà đắm hồn người trong tái tê. 
 67. 
 Không có vua thì làm sao có tướng 
 Nên về hưu vẫn phải chết ở chiến trường 
 Kiếm sắc chém bao nhiêu đầu giặc 
 Để vàng tôi trong lửa chịu đau thương. 
 68. 
 Hồn đã vượt Côn đảo 
 Thân xác còn trong lao 
 Bởi nghe lời mẹ dăn 
 Nên suốt đời lao đao. 
 69. 
 Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng 
 Mắt trông về tám hướng phía trời xa 
 Chân dép lốp bay vào vũ trụ 
 Khi trở về ta lại là ta 
 Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát 
 Trông về Việc Bắc tít mù mây 
 Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt 
 !   Máu ở !   chiến trường hoa ở đây. 
 70. 
 Tay em cầm bông bần li 
 Bờ cây đỏ thắm làm chi não lòng 
 Chuyện tình kể trước rạng đông 
 Hoàng hôn ảo vọng vẫn không tới bờ 
 Thiên đường thì quá mù mờ 
 Vĩ nhân tỉnh lẻ vật vờ bóng ma 
 Hành trình thơ ấu đã qua 
 Hỡi người hàng xóm còn ta với mình. 
 71. 
 Cùng đoàn quân anh đi tới thành phố 
 Bị lạc đường về hội nhà văn 
 Ừ nhỉ bao giờ quay trở lại 
 Với năm anh em trong một chiếc xe tăng. 
 72. 
 Ván bài lật ngửa tênh hênh 
 Con đường thiên lí gập gềnh mãi thôi 
 Thay tên đổi họ mấy hồi 
 Vẫn chưa tới được chân trời mộng mơ. 
 73. 
 Mẹ và em đang ở đâu 
 Giữa vùng cát trắng đêm thâu gió lùa 
 Ổ rơm teo tóp ngày mùa 
 Xác xơ thân lúa vật vờ thân tôi 
 Bờ tre kẽo kẹt liên hồi 
 Bầu trời vuông với một ngôi sao dời 
 Đánh thức tiềm lực mấy hồi 
 Ai? 
 Chẳng ai đáp lại lời của tôi. 
 74. 
 Anh đã đứng trước biển 
 Cù Lao Chàm kia rồi 
 Nhưng khoảng cách còn lại 
 Xa vời lắm anh ơi. 
 75. 
 Ôi thằng Trần Mạnh Hảo 
 Đi phỏng vấn Chí Phèo 
 Lão chết từ tám hoánh 
 Đời mày vẫn gieo neo 
 Còn cái lão Bá Kiến 
 Đục bản in thơ mày 
 Bao giờ mày say rượu 
 Bao giờ thì ra tay. 
 76. 
 Em ơi buồn làm chi 
 Em không buồn sao được 
 Quan họ đã vào hợp tác 
 Đông Hồ gà lợn nuôi chung 
 Bên kia sông Đuống em trông 
 Còn đâu thấy lá diêu bông hỡi chàng. 
 77. 
 Người về đồng cói người ơi 
 Phía ấy mặt trời mọc lại 
 Một thời xa vắn!   g, xa r�!   �i 
 Phủ Khoái xin tương oai oái 
 Ở đời gặp may hơn khôn 
 Nào ai dám ghen dám cãi 
 Người đã đi Mĩ hai lần 
 Biết rồi, khổ lắm, nói mãi! 
 78. 
 Anh đứng thành tro em có biết 
 Hôm qua lại gặp chuyến xe bò 
 Vẫn anh đi với vầng trăng cũ 
 Áo đỏ bên cầu đợi ngẩn ngơ. 
 79. 
 Ôi màu tím hoa sim 
 Nhuộm tím cuộc đời dài đến thế 
 Cho đến khi tóc bạc da mồi 
 Chưa làm được nhà 
      còn bận làm người
      Ngoảnh lại ba mươi năm 
 Tím mấy ngàn chiều hoang biền biệt. 
 80. 
 Kòn trô dấn bước đường chinh chiến 
 Nửa gánh giang hồ nửa ái ân 
 Ngàn sau sông Dịch còn tê lạnh 
 Tráng sĩ có về với bến xuân. 
 81. 
 Văn chương thuở ấy như bèo 
 Thương cụ gồng gánh trèo leo tận trời 
 Giấc mộng lớn đã bốc hơi 
 Giấc mộng con suốt một đời bơ vơ 
 Ước chi cụ sống tới giờ 
 Chợ trời nhan nhản tha hồ bán văn 
 82. 
 Cũng muốn tin vào hoa hồng 
 Tin vào điều không thể mất 
 Cả tôi và cả chúng ta 
 Đứng trong đầm lầy mà hát 
 Ông không phải là bố tôi 
 Con chim sâm cầm đã chết 
 Ông không phải là bố tôi 
 Con chim sâm cầm ai giết! 
 83. 
 Bốn mươi tuổi mới vào đời 
 Ăn đòn hội chợ tơi bời xác xơ 
 Giữa hai trận tuyến ngu ngơ 
 Trong lòng Hà nội bây giờ ở đâu? 
 84. 
 Vỡ lòng câu thơ viết 
 Mời bác ngủ bác ơi 
 Đêm nay bác không ngủ 
 Nhà thơ ngủ lâu rồi. 
 85. 
 Thiên thai từ giã về dương thế 
 Nhắc chi ngày ấy buồn lòng ta 
 Sân đình ngất ngưởng ngôi tiên chỉ 
 Uống rượu say rồi hát quốc ca. 
 86. 
 Khi về xuôi anh mang theo 
      đồng bạc trắng hoa xoè
      Với một mối tình sơn cước 
 Mùa lá rụng trong vườn 
      năm này qua năm khác
      Đám cưới vẫn không thành 
      vì giấy giá thú chửa làm xong.
      
 87. 
 Sắp cưới bỗng có thằng phá đám 
 Nên ông chửi bố chúng mày lên 
 Đầu chày đít thớt đâu còn ngán 
 Không viết văn thì ông viết phim 
 88. 
 Biết mấy mươi chiều khói thuốc bay 
 Quê nhà vạn dặm khuất trùng mây 
 Lui về kí ức chân trời cũ 
 Uống chén rượu buồn không dám say. 
 89. 
 Trăm năm ông phủ… Ngọc Tường ôi 
 Cái nợ lên xanh rũ sạch rồi 
 Cửa Việt tung hoành con sóng vỗ 
 Sông Hương lặng lẽ chiếc thuyền trôi 
 Sử thi thành cổ buồn nao dạ 
 Chuyện mới Đông Hà tái nhợt môi 
 Từ biệt chốn xưa nhiều ánh lửa 
 Trăm năm ông phủ… Ngọc Tường ôi! 
 90. 
 Dẫu chín bỏ làm mười 
 hay mười hai cũng mặc 
 Chẳng ai dung thiên sứ đất này 
 Dụ đồng đội vào trong mê lộ 
 Rồi bỏ đi du hí đến năm ngày. 
 91. 
 Giặc giã yên rồi 
      về xoay khối vuông Ru bích
      Đoán hậu vận rủi may 
      thưa quí vị, xin mời
      Xanh tím trắng đỏ vàng đều đủ hết 
 Ta cùng vào cuộc chơi 
 Không gian bốn năm chiều 
      thời gian xin tuỳ thích
      Đảo lộn tùng phèo thật giả trắng đen 
 Tôi như cục xà bông thứ thiệt 
 Cứ đổ rượu vào 
      hình quí vị sẽ hiện lên.
      
 92. 
 Người người lớp lớp 
      xông ra trận
      Cờ đỏ 
      mưa sa
      suốt dặm dài
      Mở đột phá khẩu 
      tiến lên
      nhất định thắng
      Lô cốt mấy tầng 
      đè nát vai
      Dẫu sông núi cỏ cây làm chứng 
 Hồn vẫn treo trên 
      Vọng hải đài.
      
 93. 
 Ba lô trên vai từ đêm mười chín 
 Một tiếng chim kêu sáng cả rừng 
 Thì cứ khắc đi rồi khắc đến 
 Sao còn ngồi đó cụ già Khương? 
 94. 
 Tuổi hai mươi xung phong lên Tây bắc 
 Nguyện hi sinh chiến đấu dưới cờ 
 Lại xung phong vào Nam đánh giặc 
 Với bà mẹ đào hầm đầu bạc phơ phơ 
 Hoà bình rồi tiến lên đổi mới 
 Bất ngờ ngã ngựa chốn non cao 
 Dẫu nhiều lần bị lừa như thế 
 Thì cuộc đời vẫn đẹp sao 
 Tình yêu vẫn đẹp sao! 
 95. 
 Trái tim với nỗi nhớ ai 
 Như cây trong phố đứng hoài chờ trăng 
 Như người đàn bà ngồi đan 
 Sợi dọc thì rối, sợi ngang thì chùng. 
 96. 
 Ra đi từ bến My Lăng 
 Bao năm dấu kín ánh trăng trong lòng 
 Tuổi già về lại bến sông 
 Trăng kia đã lặn phải chong đèn dầu. 
 97. 
 Giấu một chùm thơ trong chiếc khăn tay 
 Em hăm hở đi tìm người trao tặng 
 Những kẻ phong lưu, những tên du đãng 
 Mấy ai biết được hương thầm của cô gái xóm đê. 
 98. 
 Chú dế góc sân hồn nhiên ca hát 
 Hát thành thơ như nước triều lên 
 Khi khôn lớn lại hồn nhiên đi giữa 
 Biển một bên và em một bên. 
 99. 
 Người đàn bà mà tôi ao ước 
 Trên vành đai chống Mĩ những năm xưa 
 Tình yêu đã lụi tàn cùng kí ức 
 Nhưng còn đây tội lỗi đến bao giờ 
Tự hoạ 
 Cô giáo làng tôi đã chết rồi 
 Một đêm ra trận đất bom vùi 
 Xót xa Đình Bảng người du kích 
 Đau đớn Bạch Đằng lũ trẻ côi 
 Đường tới chiến công gân cốt mỏi 
 Lối và!   o lửa đạn tóc da mồi 
 Mặt trời ảm đạm quê hương cũ 
 Ở một cung đường rách tả tơi.
      
Lời cuối sách 
 Tiếp theo cuốn Thương nhớ tài hoa của Nguyễn Vũ Tiềm, phác thảo chân dung của năm mươi nhà thơ, nhà văn đã quá cố, những cây bút có những đóng góp đặc sắc cho nền văn học của đất nước, hôm nay Nhà xuất bản Văn học gửi tới bạn đọc một tập hợp khác về chân dung các nhà văn. 
 Đây là những kí hoạ có tính đặc tả của Xuân Sách, những chân dung vốn đã khá phổ biến trong và ngoài giới văn học suốt vài chục năm qua. 
 Tác giả không nêu đích danh ai, nhưng dưới nét bút phác thảo, những độc giả quan tâm tới văn học và người làm văn học, vẫn có thể nhận ra từng đối tượng. Dĩ nhiên thể loại này thường cố ý phóng to các đặc điểm và khi nhìn vào nét đặc tả ấy  tuy mất cân đối và đôi khi phiến diện – vẫn dễ dàng nhận ra diện mạo, cốt cách từng nhân vật. 
 Chất vui, hóm và nhất là khả năng chơi chữ có thể khiến người ta ngạc nhiên một cách thú vị, nhưng cũng có thể gây nên những sự không hài lòng đây đó… 
 Chúng tôi chỉ coi đây là những nét tự trào của gi!   ới cầm bút, cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa, hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên những chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình hoặc hiểu mình thêm qua cái nhìn của người cùng hội, cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong truyền thống dân gian vốn là vũ khí, ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía trước. 
 Với ý nghĩ ấy, chúng tôi mong bạn đọc và các nhà văn thông cảm cho những gì bất cập hoặc chưa lột tả được thần thái của từng chân dung. 
 Dù sao đây cũng là 100 bức tranh nhỏ về những người có công trong văn học, những người nổi tiếng trong làng văn, trong bạn đọc bằng chính những tác phẩm có giá trị của mình. 
 Rất mong bạn đọc và các nhà văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết. 
      Nhà xuất bản Văn học
              
    
 
 
 
          
      
 
  
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét