Nguyễn Hiến Lê trong "Văn học Miền
của Võ Phiến
Ghi chép và thực hiện ebook: Goldfish
Ngày hoàn thành: 15/01/2008
Thư viện Ebook
Trong cuốn Hồi kí Nguyễn Hiến Lê, Nhà xuất bản Văn học 1993, tác giả viết về nhà văn Võ Phiến trong mục "Bạn trong nhóm Bách Khoa" như sau: "Tôi quí Võ Phiến nhất. Ông tên thật là Đoàn Thế Nhơn, quê ở Bình Định, hồi trẻ được Đào Duy Anh khen có khiếu về văn. Gia đình ông chắc có truyền thống văn học, một người em ông có bút hiệu là Lê Vĩnh Hoà, theo kháng chiến, viết truyện ngắn nhưng không sâu sắc bằng ông, chết trước năm 1975.
"Ông hiền lành, ăn nói dí dõm, lễ độ, thành thực, trọng tôi như anh. Tình ông đối với tôi rất kính đáo. Trước ngày giải phóng độ mươi bửa, ông lại từ biệt tôi, nhờ tôi giữ một số tác phẩm đã in của ông, và cho tôi hay đã gởi các bản thảo chưa in cho Nguyễn Mộng Giác, cũng quê ở Qui Nhơn cũng có tài viết truyện. Khi chia tay tôi xúc động rơm rớm nước mắt, Võ Phiến bảo sẽ trở lại, nhưng sau đó ông đi luôn. Nghe nói ở Mĩ ông viết một bài báo khuyên các bạn Việt kiều giữ truyền thống Việt, lời rất cảm động". (trang 505)

Nhà văn Võ Phiến
Nhà văn Võ Phiến, trong Trả lời phỏng vấn của Đào Huy Đán tháng 3/88, đã kể lại rất cảm động buổi gặp gỡ cuối cùng giữa ông và học giả Nguyễn Hiến Lê: “Khuôn mặt đẫm lệ của ông hôm ấy in sâu trong trí tôi như hình ảnh bi thương của giới cầm bút miền Nam lúc bấy giờ".
Mới đây, chúng tôi tình cờ tìm thấy tác phẩm VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN của Võ Phiến ("Viết xong tại Los Angeles tháng 5-1986 – Sửa và thêm, tháng 7-1999"), tập này được website Tiền Vệ đăng lại nhiều kỳ với Lời giới thiệu như sau (xin trích): "Trong lãnh vực nghiên cứu văn học ở hải ngoại từ sau năm 1975, bộ Văn Học Miền Nam gồm 7 tập của Võ Phiến, dù gây nên nhiều tranh cãi sôi nổi và dù mắc một số hạn chế nhất định, vẫn là một trong những thành tựu lớn nhất. Nó không những giúp người đọc nhận diện một khía cạnh khác trong tài năng của Võ Phiến mà còn cung cấp cho người đọc một khối tài liệu đồ sộ và đáng tin cậy về một nền văn học ngỡ đã bị quên lãng: văn học Miền
Trong tác phẩm nầy, ông Võ Phiến đã nhiều lần nói về cụ Nguyễn Hiến Lê hoặc dẫn lời cụ. Ở đây chúng tôi xin mạn phép chép lại một số đoạn để chúng có dịp tìm hiểu về cụ Nguyễn Hiến Lê.
Ngay trong LỜI NÓI ĐẦU, tác giả nói đã đến các tác phẩm của cụ Nguyễn Hiến Lê: " Mà dù cho có sự tàng trữ ở nước ngoài, có sự trốn chạy của sách Việt, thì cái phần được cứu thoát cũng không mấy lớn lao. Thật vậy, trước 1975 học giả Nguyễn Hiến Lê đã cho xuất bản hơn một trăm tác phẩm, bây giờ mở tập thư mục thư viện Quốc hội Hoa Kỳ ấn bản 1982 đếm thử được bảy nhan đề!".
"Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách văn thơ nhiều nỗi thiệt thòi."
"Nguyễn Hiến Lê có lần nói một câu chua chát: "Trong những thời loạn thì văn hóa chỉ đóng một vai trò chạy cờ, nghĩa là một vai trò rất phụ, có thì thêm rôm mà chẳng có thì cũng chẳng ai thấy thiếu." (Tin Sách, số tháng 5-1965). Con người nói ra câu ấy tận tụy đóng vai trò chạy cờ suốt ba mươi năm loạn lạc của đất nước, cho đến khi nước nhà có hòa bình thì ngưng bút hẳn. Ít ra là ngưng viết lách công khai. Oái ăm là thế".
Trong mục Mức sống, tác giả cho biết: "Phần lớn các văn nghệ sĩ đều có nghề sinh sống ngoài văn thơ; cái lợi tức như thế không liên hệ đến văn chương nên không nói làm gì. Mà riêng về cái lợi tức của nghề văn, vấn đề cũng không đơn giản. Nếu chỉ kể tiền nhuận bút các bài đăng báo và tiền tác quyền các sách được xuất bản thì chẳng là bao Tuy vậy không thể bảo nhất định chỉ viết văn viết sách thì không thể sống nổi. Thỉnh thoảng, thực tế vẫn đưa ra những chứng minh ngược lại. Một nhà văn thành công, được độc giả yêu thích tương đối rộng rãi, biết dung hòa quan niệm sáng tác của riêng mình với nhu cầu của quần chúng, lại khéo biết tính toán cân nhắc, thì vẫn có thể sống đầy đủ bằng lợi tức các tác phẩm. Như ông Nguyễn Hiến Lê chẳng hạn. Trong suốt một thời gian dài gần vài mươi năm, ông chỉ viết văn thôi, không làm một việc gì khác, mà luôn luôn giữ được mức sống khá cao. Vào giai đoạn sau cùng, ông ở một ngôi biệt thự lầu; trong thời buổi lạm phát phi mã không lúc nào thấy ông gặp lúng túng, lo ngại; ngoài ra còn có thể dành dụm cho một tuổi già phong lưu."
Trong mục Lối sống, tác giả cho rằng cụ Nguyễn Hiến Lê "hết sức mực thước nghiêm chỉnh". Ông cho biết thêm: "
đa số nói chung thì các nhà văn Miền
Trong đoạn tiếp theo, tác giả nói rõ hơn: "Tiêu biểu cho nếp sống mẫu mực, nghiêm chỉnh là Nguyễn Hiến Lê. Ông không thức quá khuya, dậy quá sớm, ông không làm việc "bù đầu bù óc". Ông làm vừa sức mình, nhưng rất đều, giữ đúng chương trình, mỗi ngày ngồi vào bàn viết vào giờ nhất định, rời khỏi bàn viết vào giờ nhất định. "Tôi tự đặt cho mình một kỷ luật, trừ khi đau ốm còn ngày nào thì cũng dậy từ 6 giờ hay 6 giờ rưỡi, điểm tâm lúc 7 giờ, rồi nằm đọc sách, chín giờ lại bàn viết để viết luôn đến 12 giờ, bữa trưa. Ăn trưa xong tôi nghỉ khoảng một giờ, nhắm mắt lại, chợp được độ nửa giờ là nhiều; một giờ rưỡi dậy, nằm ở giường đọc sách đến 3 giờ. Chiều lại viết từ 3 giờ đến 5 giờ rưỡi, 6 giờ; tắm xong, ăn bữa tối lúc 7 giờ. Cả buổi tối, cho tới 10 giờ, tôi chỉ nằm đọc sách báo." Cứ như vậy trong hơn 30 năm ông viết được 120 nhan đề. Ông tính ra: "120 nhan đề đó được khoảng 30.000 trang, chia cho 33 năm chỉ có khoảng 900 trang một năm, trung bình chưa được 3 trang mỗi ngày mà!" (Đời viết văn của tôi).
"Sau 1975 dưới chế độ mới, ông không cho xuất bản tác phẩm nữa nhưng ngoài bảy mươi tuổi ông vẫn tiếp tục viết. Trong một lá thư từ Long Xuyên năm 1982, ông nói về đời sống hàng ngày: "Năm giờ sáng dậy, làm mươi exercises nhẹ, cử động khắp các bắp thịt, thở bụng khoảng 1 giờ thì xong. Ra vườn bắt sâu cho mấy chậu kiểng, đi bách bộ trong mấy đường chung quanh nhà, ăn sáng, rồi nằm đọc sách, 9 giờ viết tới 12 giờ; chiều viết từ 3 giờ đến 5 giờ; tối đi bách bộ trong vườn, 9 giờ đi ngủ." (Thư đề ngày 15-10-1982)".
Trong mục Năng suất, tác giả ghi nhận: "Chẳng hạn đến cái lượng viết. Về mặt này phải chịu trong thời kỳ ấy đa số viết khỏe. Biên khảo như Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Hiến Lê, Kim Định; sáng tác như Nhã Ca, Bình Nguyên Lộc, Thảo Trường, Duyên Anh v.v…, trong vòng hai mươi năm rất nhiều người cho xuất bản ba, bốn chục tác phẩm, có kẻ đã viết hay in đến hơn trăm tác phẩm".
Trong chương CÁC YẾU TỐ CỦA SINH HOẠT VĂNHỌC: XUẤT BẢN, mục Một hiện tượng mới: xuất bản tài tử, tác giả cho biết: "các nhà văn thời kỳ 54-75, cho rằng tự xuất bản lấy sách mình thì văn sĩ kiếm được một món tiền khá hơn là bán tác phẩm, và họ lại được tự do chọn in những cuốn mình thích, khỏi phải tùy thuộc vào sự phán đoán của nhà xuất bản". Trong số đó: "Tự xuất bản sách sớm nhất là Nguyễn Hiến Lê, Thế Phong (nhà Đại Nam Văn Hiến), Bình Nguyên Lộc (nhà Bến Nghé); những vị này trước sau gần như chỉ in sách của mình mà thôi: nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê ra đời năm 1954 in đến hàng trăm nhan đề ".
Theo tác giả thì: "Từ trước đến nay chưa bao giờ văn giới ào ào lăn vào doanh nghiệp đông đảo đến thế. Đó là hiện tượng độc đáo của một thời kỳ". Và "Nguyễn Hiến Lê tính ra trong năm 1964 tại Sài Gòn có bốn năm nhà gọi là lớn trên tổng số trên tám chục nhà xuất bản. Số còn lại là… cò con; có lẽ đa số là của văn nghệ sĩ. (Con số này tăng dần cho đến "những ngày cuối cùng" của Nguyễn Khắc Ngữ, thành ra là 150 nhà.) Ông Nguyễn Hiến Lê cũng có mô tả cảnh "hoạt động" của các nhà xuất bản nghệ sĩ, một chuyện ngộ nghĩnh chắc chắn là hiếm thấy ở các nước Tây phương: "Các vị ấy rán bóp bụng để dành một số tiền, xuất bản lấy tác phẩm rồi phát hành lấy. Không mướn một người làm công nào cả. Vợ chồng con cái chia nhau mà làm hết mọi việc và chịu sống rất chật hẹp để có chỗ chứa sách ngay ở phòng viết, phòng ăn, phòng ngủ, bất kỳ nơi nào có một chút chỗ trống. Khách tới mua sách dù chỉ là mươi cuốn được vài trăm đồng thì gia đình cũng nhốn nháo cả lên: tìm xem sách chất ở đâu (nhiều người chưa quen có thứ tự), leo lên lấy, phủi bụi, rồi mở ra đếm, giao cho khách, tính tiền, thu tiền…, cảnh cảm động mà thực vui. Hạnh phúc trong gia đình ở chỗ cùng tiếp tay nhau làm việc." [Theo "Tình hình xuất bản trong năm 1964", tạp chí Tin Sách bộ mới số 35, tháng 5-1965.] Trong số "các vị" được hưởng thứ hạnh phúc này tất nhiên có ông Nguyễn Hiến Lê, ! kẻ dẫn đầu, kẻ khởi xướng, có đầy đủ thẩm quyền để phát biểu thay cho cả giới".
Tác giả cho biết thêm: "sự tin cậy vào một tên tuổi văn nghệ, vào một cơ sở xuất bản có uy tín khiến độc giả mạnh dạn hơn trong việc mua sách. Nhất là vào giai đoạn mà tình hình chiến tranh sôi động và kinh tế khó khăn làm giảm sức mua của quần chúng thì vai trò của những nhà xuất bản này thật là quan trọng. Võ Hồng trước cho xuất bản một cuốn truyện là Hoài cố nhân, sau đó nhiều năm vẫn không được mấy ai chú ý, từ khi sách của ông được các nhà Thời Mới và Lá Bối ấn hành tự dưng số người đọc ông tăng hẳn lên. Lại như trường hợp cuốn Sử ký của Tư Mã Thiên. Cuốn ấy trước đã do Nhượng Tống dịch, sau này do hai ông Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi dịch lại. Khi Lá Bối định in cuốn sau thì bản dịch của Nhượng Tống, do Khai Trí tái bản vẫn còn trên thị trường. Ông Nguyễn Hiến Lê đến nhà Khai Trí dò hỏi tình hình, được ông Khai Trí cho biết: bản dịch Nhượng Tống in ba nghìn bản cách đã ba năm, chỉ bán được hai nghìn. Nhà Lá Bối bèn in ra ba nghìn bản khác và bán trong vòng sáu tháng thì hết sách mà thư các nơi còn gửi về tới tấp đòi mua thêm."
Trong chương MẤY NÉT TỔNG QUÁT VỀ NỀN VĂN HỌC 1954-75: VĂN HỌC, mục Đối chiếu với Miền Bắc, tác giả viết: "Ở Miền Nam một mình Nguyễn Hiến Lê dịch bộ Chiến Tranh và Hòa Bình của L. Tolstoi; ở Miền Bắc dịch phẩm ấy được một ban phiên dịch bốn người thực hiện, trong đó có kẻ thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp, có người biết tiếng Hoa, tiếng Nga. Tập hợp một số người đông đảo để biên khảo dịch thuật tại Miền
"Ông viết như sau:
"Phần lớn thì giờ của tôi dùng để đọc sách báo Bắc Việt, tìm hiểu văn học ngoài đó, và xét chung, tôi thấy về sáng tác, Bắc không phong phú bằng Nam; về khảo cứu sử và cổ văn học của mình thì Bắc hơn Nam, nhưng trừ vài ba tác phẩm thực có giá trị như Chống Nguyên Mông của Hà Văn Tấn…, còn lại đều bình thường thôi; về dịch, Bắc cũng ít hơn Nam." (sđd, trang 228)"
Trong phần II. GIAI ĐOẠN, chương GIAI ĐOẠN 1954-1963: BỐI CẢNH, mục Tình hình trước 1954, tác giả cho rằng trong giới cầm bút "
có một xu hướng phi chính trị. Ông Nguyễn Hiến Lê lúc ấy vừa viết vừa dịch và nhà Phạm Văn Tươi xuất bản những cuốn sách thuộc loại "Học làm người". Ở đây không có bóng dáng thời cuộc. Chuyện chính trị bị lờ hẳn đi. Chỉ có những phương pháp học hành, làm ăn sao cho có kết quả, chỉ có chuyện tổ chức công việc, rèn luyện tính tình v.v…" Trong chú thích, tác giả "ghi nhận thêm ý kiến của Nguyễn Hiến Lê là nhân vật đã hoạt động văn nghệ ở Sài Gòn từ trước 1954: "Trong thời kháng Pháp, văn học ở thành (vùng bị chiếm) từ Bắc tới
Ở miền
Trong chương GIAI ĐOẠN 1954-1963: VĂN HỌC, tác giả nhận xét về tạp chí Bách Khoa và vai trò của cụ Nguyễn Hiến Lê như sau: "Cũng như tờ Văn, Bách Khoa là một tạp chí dung hòa rộng rãi mọi khuynh hướng.
"Không có chủ trương "văn nghệ cách mạng" cũng không chủ trương "vượt thời gian", nó đăng bài của các lão thi sĩ tiền bối Đông Hồ, Quách Tấn, Vũ Hoàng Chương, lẫn truyện của Thanh Tâm Tuyền, Trùng Dương… Về mặt chính trị, sức dung hòa của nó khiến có lần Nguyên Sa nói đùa: Bách Khoa là một vùng xôi đậu. Nó đón nhận cả Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Vũ Hạnh, lẫn Võ Phiến, Vũ Bảo…
"Tuy vậy kể là cây bút chủ yếu của Bách Khoa từ trước đến sau vẫn là hai người: Võ Phiến và Nguyễn Hiến Lê (xem hồi ký Đời viết văn của tôi của Nguyễn Hiến Lê). Võ Phiến khước từ cộng sản ngay từ đầu, có thái độ chính trị dứt khoát, vừa sáng tác vừa khảo luận, và dần dần đưa thêm vào Bách Khoa một số khuôn mặt trẻ; Nguyễn Hiến Lê thì không đề cập đến một lập trường chính trị nào, chuyên về khảo luận. Các vị khác, có người có mặt vào giai đoạn đầu, về sau thưa dần như: Nguyễn Ngu Í, Cô Liêu, Vũ Hạnh (Vũ Hạnh sau chủ trương tờ Tin Văn cùng với Nguyễn Nguyên, Lữ Phương, dưới sự chỉ đạo của văn sĩ cộng sản Nguyễn Văn Bỗng); có những người mới lần lượt đến vào giai đoạn sau: Lê Tất Điều, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Thị Hoàng, Hoàng Ngọc Tuấn, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Y Uyên, Vô Ưu, Nguyễn Mộng Giác v.v…"
Trong chương GIAI ĐOẠN 1964-1975: VĂN HỌC, mục Phong trào về nguồn, tác giả cho biết, ngoài cuốn Nước non xứ Quảng của của Phạm Trung Việt xuất bản năm 1962, " từ khoảng 1965 về sau, nhiều người khác viết địa phương chí và nhiều vị thành công. Ông Nguyễn Đình Tư năm 1965 cho in cuốn Non nước Phú Yên với lời tựa của Nguyễn Hiến Lê, năm 1969 lại có cuốn Non nước Khánh Hòa. Nhưng công phu và xuất sắc nhất có lẽ là hai cuốn Non nước Bình Định (1967, 515 trang) và Xứ trầm hương (1969, 480 trang) của Quách Tấn. Tất cả những tác phẩm ấy đều được độc giả đón tiếp nồng nhiệt."
Trong chương THI CA, cũng như chương trên, tên cụ Nguyễn Hiến Lê chỉ thấy xuất hiện có một lần trong đoạn sau: "Từ 1975 đến nay ở hải ngoại các nhà xuất bản in lại nhiều tiểu thuyết của thời kỳ nói trên: truyện Nhã Ca, Hoàng Hải Thủy, Nguyễn Thị Hoàng, Lệ Hằng v.v… bày nhan nhản. Không hẳn vì tiểu thuyết "dễ đọc" mà in; sách biên khảo của Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Duy Cần, Nghiêm Xuân Hồng v.v… cũng được tái bản khá nhiều. Nhưng thơ thì thật là ít".
Trong phần KẾT, theo đánh giá của tác giả thì: "Trong hai mươi năm văn học từ cuối 1954 đến đầu 1975 ba phần tư thời gian Miền
Goldfish 15/01/2008
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét