Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

Khaosat va phantich hai chu sac khong 0563E0C4.html

Khaosat va phantich hai chu sac khong 0563E0C4.html

KHẢO SÁT VÀ PHÂN TÍCH HAI CHỮ SẮC, KHÔNG TRONG ĐƯỜNG THI

Tác giả: Lê Phương, Hà minh

             (Trường ĐHSP Hà Nội)

Nguồn: http://www.hnue.edu.vn/TCKH/2006_5_07.pdf

Thực hiện ebook: Goldfish

I. MỞ ĐẦU

Ngôn ngữ chính là “tiếng nói” văn hóa của mỗi dân tộc, trong “tiếng nói” ấy có thi ca. Với tư cách là một “chủ thể sáng tạo văn hóa”, ngôn ngữ thơ Đường trở thành một phương tiện tư duy tuyệt vời. Do đó, từ góc độ ngôn ngữ để khám phá hàm nghĩa văn hoá tiềm ẩn trong thơ Đường là một việc làm hữu ích. Với một phạm vi hẹp là khảo sát về hai chữ sắc, không; chúng tôi muốn nhìn từ mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa để tìm hiểu về ngôn ngữ thơ Đường. Cũng bởi chính những giá trị văn hóa được biểu đạt trong ngôn từ sẽ tạo nên tính chất đối thoại của một nền thi ca.    

Nghiên cứu về bút pháp ngôn ngữ Đường thi, trong phạm vi tư liệu mà chúng tôi bao quát được, hướng nghiên cứu những từ ngữ có tần suất xuất hiện cao hoặc hệ thống những từ ngữ có giá trị khu biệt về phong cách trong ngôn ngữ thơ Đường hầu như chưa được chú ý. Trong khi, theo lý thuyết nghiên cứu ngôn ngữ trong mối quan hệ với văn hoá và phong cách thì đây là một hướng tìm tòi nhiều triển vọng. Khảo sát, phân tích hai chữ sắckhông trong ngôn ngữ thơ Đường là đề tài chúng tôi nhận được sự gợi ý từ bài viết “Thử tìm hiểu tứ thơ trong thơ Đường” của Nhữ Thành [10, tr 25]. Chúng tôi nhận thấy, việc giải mã hai chữ sắc không trong thơ Đường, ở một chừng mực nhất định, có thể gợi mở một khía cạnh trong “mã” văn hóa – ngôn ngữ Đường thi. Và do thế, nó giúp ích cho việc tìm một con đường khám phá lâu đài thơ ca Trung Hoa. Kết quả khảo sát và dẫn liệu của chúng tôi chủ yếu dựa vào bộ “Thơ Đường” [6] và bộ “Đường Thi” [3]. 

II. GIẢI MÃ HAI CHỮ SẮC, KHÔNG TRONG THƠ ĐƯỜNG

1. Chữ sắckhông trong từ nguyên tiếng Hán có nhiều nét nghĩa khác nhau, xin

được tổng hợp sự giải thích nghĩa từ của một số từ điển.

(1) Hán Việt từ điển – Đào Duy Anh

- Chữ sắc có 4 nghĩa cơ bản: 1. Màu sắc; 2. Dung mạo; 3. Sắc con gái đẹp; 4. Phong cảnh. Cũng trong từ điển này, còn thống kê 22 kết hợp từ có thành tố sắc với những nét nghĩa ngữ cảnh khác nhau.

- Chữ không có 4 nghĩa cơ bản: 1. Trống không; 2. Không có chứng thực; 3. Thong thả; 4. Nghèo đói. Ngoài ra còn thống kê 32 kết hợp từ có yếu tố không với các nét nghĩa ngữ cảnh khác nhau.

(2) Từ HảiTừ Nguyên

- Chữ sắc có 8 nghĩa cơ bản: 1. Nhan khí; 2. Thái sắc; 3. Nữ sắc; 4. Cảnh tượng; 5. Ôn nhuần; 6. Tác sắc; 7. Chủng loại của vật (vật chi chủng loại); 8. Thành phần của bạc (ngân chi thành phần).

 

- Chữ không có 7 nghĩa cơ bản: 1. Không hư; 2. Làm cho trống rỗng (sử chi không hư); 3. Trống rỗng; 4. Tận, hết; 5. Nghèo, không có tài sản; 6.(Phật) Các pháp không có thực tính; 7. Việc không thành.

Như vậy, theo định nghĩa của từ điển, chữ sắc có ý nghĩa cơ bản là chỉ màu sắc, sắc đẹp, cảnh tượng…; chữ không có ý nghĩa cơ bản là hư không, không gian, trống rỗng,…

(3) Bên cạnh đó, hai chữ sắckhông còn có nét ý nghĩa Phật giáo riêng biệt. Theo Từ điển Phật học Hán Việt [12], hai khái niệm sắckhông được định nghĩa như sau:

- Sắc: Nghĩa là biến hoại biến ngại, chất ngại. Biến hoại là chuyển biến phá hoại. Biến ngại là biến hoại chất ngại. Chất ngại là có hình chất và gây chướng ngại lẫn nhau. Đó là dựa vào cực vi ngũ căn ngũ cảnh mà tạo thành. Lại nữa sắc có nghĩa là thị hiện. Trong chữ sắc pháp chỉ lấy riêng sắc trần, trong ngũ sắc mà gọi là sắc, bởi vì nó có 2 nghĩa là chất ngại và thị hiện…

Các thuật ngữ Phật học cơ bản có liên quan đến khái niệm sắc được định nghĩa như sắc cảnh, sắc thân, sắc tướng, sắc uẩn,…đều mang những ý nghĩa triết học uyên áo của đạo Phật, chỉ cái “thực” có thể nhìn thấy, trong đối lập với không.

- Không: Trống không, không có thật, không có cảnh, không có thể. Tất cả các sự vật trong tam giới đều không phải là thật. Nhận ra điều đó tức là Không"

Các thuật ngữ Phật học cơ bản có liên quan đến khái niệm không gồm có: không đại, không đế, không định, không giới,… Khái niệm không theo Phật giáo chủ yếu là để chỉ bản chất hư không của thế giới.

Trong thơ Đường, trước hết do sử dụng chữ Hán làm chất liệu sáng tác, nên hai chữ sắc, không đều có những nét nghĩa từ vựng nguyên gốc. Tuy nhiên không chỉ có vậy, với đặc trưng thể loại, sự xảo diệu của ngôn ngữ thơ Đường đã nở bung, phô diễn những nét nghĩa mới của từ ngữ. Sắckhông trong thơ Đường đã thực sự mở rộng về nghĩa, mà nguyên do của sự mở rộng này chính là kiểu tư duy nghệ thuật và bút pháp đồng nhất hiện thực – tâm trạng để thể hiện ý niệm triết học về thế giới. Khi được cá thể hóa thành những mối quan hệ tế vi, sắckhông trở thành sắc màu nội tâm, trạng thái nội tâm. Vì thế, Nhữ Thành đã có lý khi đưa ra những kết luận về nét nghĩa mới của hai từ này so với nghĩa gốc trong tiếng Hán: sắc là tồn tại, không là vĩnh viễn. Ở đây đã có sự giao hòa, chuyển dịch giữa ngoại cảnh và tâm cảnh. Từ chỗ là hình tượng cụ thể của thế giới khách quan; sắc, không trở thành những phạm trù mang sắc thái cá nhân, có quan hệ mật thiết với bản thân con người, chịu sự chi phối của con người trong mối quan hệ tương hỗ, tương chiếu với tự nhiên.

Trong sự chiếm lĩnh hiện thực của các nhà thơ Đường, hai chữ sắc, không không chỉ dừng lại ở sự mở rộng ý nghĩa từ nguyên. Mà hơn thế, chính từ sự mở rộng hữu tình, hữu ý mà chữ sắc và chữ không đã trở thành “yếu tố gần như độc quyền sử dụng” của thơ Đường; để từ đó, chúng cho ta một cơ sở khả quan để đi vào hiểu chỉnh thể (ý của Nhữ Thành). Từ sự giãn nở của khái niệm, ngôn ngữ thơ trở về với sự ngưng đọng của ý nghĩa. Từ diện dẫn đến điểm đã tạo nên nét khu biệt độc đáo của thơ Đường. 

Xem xét Thơ Đường một cách tổng thể, sắckhông đều quy tụ về một mối trong sự bộc lộ nội tâm của con người. Với ngôn ngữ Đường thi có thể khẳng định chắc chắn: nghiên cứu ngôn ngữ sẽ cho phép phân tích cơ chế tư duy chuyển dịch trong nó. Chính vì vậy, từ sự khảo sát, nghiên cứu ngôn ngữ ở đây, cho phép ta khẳng định nét đặc trưng khu biệt của tứ thơ Đường: sự “thống nhất sự vật bằng tư duy”. Thơ Đường là loại thơ không thể thâm nhập chỉ bằng các giác quan, đến với thơ Đường, chúng ta buộc phải tư duy để tìm thấy các mối quan hệ ẩn chứa trong đó. Một trong những yếu tố để tạo nên sự quy tụ trong chỉnh thể đó là tối giản sự thừa thãi, xa hoa của ngôn ngữ để tạo thành nét khu biệt duy nhất. Sẽ là vô ích nếu giải mã thơ Đường bằng cách bóc tách riêng biệt từng lớp nghĩa của từng chữ. Vì nếu thế ta chỉ có ấn tượng về một ngôn ngữ rời rạc, không thể cảm được sức nặng tình cảm mà chúng chứa đựng. Hai chữ sắc, không với ý niệm về sự tồn tại vĩnh viễn đã cho thấy sức nặng của nội tâm thi nhân dồn lên con chữ. Từ đó tạo nên sự cô đọng, sự ngưng lắng những xúc cảm trong ngôn ngữ Đường thi.

Dựa vào 2 bộ thơ Đường đã nói trên, chúng tôi thống kê được hai chữ sắc, không xuất hiện 119 lần (trên tổng số 100 bài thơ). Trong đó chữ sắc xuất hiện 63 lần, chữ không xuất hiện 56 lần. Có cả thảy 7 lần xuất hiện cùng lúc hai chữ sắc, không trong một bài thơ. Như vậy là từ số liệu thống kê này, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để đi sâu, tìm hiểu về đặc trưng ý nghĩa của chữ sắc và chữ không trong thơ Đường. Chúng tôi lại làm tiếp một sự thống kê đối chiếu nữa thì thấy tần số và số lượng mà hai chữ sắc, không xuất hiện là lớn hơn nhiều so với những từ ngữ chỉ các hiện tượng tự nhiên khác như tiếng chuông, dòng nước, gió, tiếng dế… Thậm chí với một từ hết sức đặc biệt trong thơ Đường là từ “cô” cũng chỉ xuất hiện 46 lần [11, 10]. Điều này cho thấy sự chiến thắng của trí tuệ và nội tâm hàm ẩn trong sắc, không. Không chỉ đơn thuần là biểu thị một trạng thái tình cảm cá biệt nào đó, hai chữ sắc, không thực sự mang tầm khái quát và có ý nghĩa bao trùm.

2. Có thể thấy ở hình tượng tác giả Đường thi nét đặc thù trầm tư, mặc tưởng của hiền triết phương Đông với ý niệm triết học về sự tồn tại luôn thường trực. Ý thức về sự tồn tại bao giờ cũng nằm trong một môi trường không gian, thời gian nhất định. Trong môi trường đó con người cảm nhận được sự hiện tồn của thế giới. Ở phạm vi hai chữ sắc, không đang khảo sát, chúng ta thấy rõ sức nặng, độ sâu, bề rộng và chiều dài của không gian – thời gian ẩn chứa trong đó. Việc gắn kết những phạm vi ngữ nghĩa đó với trường liên tưởng không – thời gian sẽ càng làm cho ý niệm triết học về sự tồn tại trong sắc, không được thể hiện cô đọng hơn bao giờ hết. 

Bản thể con người là một phần của tự nhiên. Sâu trong tiềm thức của con người Trung Hoa cổ đã luôn tồn tại ý niệm tôn trọng đạo của tự nhiên.  Đó là sự thể hiện một cách chiếm lĩnh mới về hiện thực thông qua ý niệm về tồn tại. Bản thân con người luôn tồn tại trong ba mối quan hệ thiết yếu nhất: với tự nhiên, với xã hội và với chính mình. Bằng thần trí mẫn tuệ, các nhà thơ Đường nhận diện được ý nghĩa của sự tồn tại trong sự tự ý thức về thời gian và không gian không trọn vẹn. Con người trong quá trình sinh tồn luôn ý thức được sự bé nhỏ, đơn độc và hữu hạn trước tự nhiên rộng lớn, vĩnh hằng. Sắc, không không còn mang ý nghĩa riêng lẻ, rời rạc mà được cô thành nỗi niềm cảm khái về quy luật vận động của tự nhiên:

Nhãn khan xuân sắc như lưu thuỷ

Kim nhật tàn hoa tân nhật khai

(Yến Đông Thành trang – Thôi Huệ Đồng)

Hai câu thơ thể hiện nổi bật ý niệm về sự tồn tại. Chữ sắc không thể hiểu theo nghĩa thuần túy màu sắc được nữa; trong tự nhiên vốn không có “màu xuân”, cần phải hiểu được đó là mùa xuân đang tồn tại. Dòng chảy của thời gian đang bào mòn sự tồn tại ấy. Trong cái diện bỗng nổi lên một điểm: hình ảnh “bông hoa hôm qua nở hôm nay đã tàn rồi”. Bông hoa là hiện thân của mùa xuân, được thi nhân nhìn nhận trong cả một quá trình, từ đó toát lên nỗi niềm cảm khái về quy luật sinh diệt của tạo hóa.

Từ góc nhìn Lão Trang, người Trung Hoa cổ định hướng sự nhận thức về vũ trụ: “Có thực mà không chứa đựng gì gọi là vũ, có dài mà không có đầu có cuối gọi là trụ” (Canh tang sở). Tất cả đều nằm trong trạng thái vô thuỷ vô chung; bởi thế nên sự tồn tại ở đây là trơ trọi, đơn côi và trạng huống xót thương, cảm khái cho sự tồn tại hữu hạn ngắn ngủi trở nên thường trực, tất yếu trong thơ Đường:

U độc không lâm sắc

Chu nhuy xương tử hành

(Cảm ngộ – Trần Tử Ngang)

Đặt hai chữ khôngsắc trong cùng một dòng thơ, câu thực trở thành điểm nhấn trong bài thơ luật, tạo đà cho một bước chuyển biến nghiệt ngã trong dòng thời gian, không có gì là tồn tại (sắc) vĩnh viễn (không). Tất cả chỉ như một ánh chớp vụt lóe lên, sinh động, tươi sáng nhưng chóng tàn. Con người thực sự cảm thấy “hữu hạn” trong thời gian và hụt hẫng, “chớp nhoáng” trong không gian. Đây là một nét đặc trưng riêng biệt chỉ có ở tâm thức phương Đông, Trần Tử Ngang đã thể hiện trong “Cảm ngộ” một trường nhìn rất dài, từ quá trình sinh tồn của loài cây hoa (xuân sinh, hạ trưởng, thu tàn), nhà thơ thể hiện tấm lòng xót thương da diết cho sự tồn tại ngắn ngủi của đời người. Chính sự tự ý thức về tồn tại đó đã tạo nên một nỗi “sầu thời gian” mang tính biểu trưng vĩnh viễn trong thơ ca phương Đông mà các nhà thơ Đường là những người khơi mạch cảm hứng.

Thơ Đường có quy luật riêng trong quá trình nhận diện sự tồn tại, như chúng tôi đã nói ở trên, đó là sự tự ý thức về không gian thời gian không trọn vẹn. Thế giới viên mãn không là mãi mãi, sự mất đi của một yếu tố sẽ để lại sự trống trải, đơn côi cho các yếu tố còn lại. Và tại đấy, chữ không là một lựa chọn đắc địa, nói lên được cái thần của câu thơ:

Phượng Hoàng đài thượng phượng hoàng du

Phượng khứ đài không giang tự lưu

(Đăng Kim Lăng Phượng Hoàng đài – Lý Bạch)

Mối giao thoa của cái vô hạn và cái hữu hạn, cái còn và cái mất đã xóa nhòa hiện thực tồn tại, chỉ để lại một khoảng trống hư vô – những khoảng trống đã tạo nên sức quyến rũ của thơ Đường. Như một nốt lặng, một sắc màu vô hình làm gợn lên những bâng khuâng tiếc nuối trong tâm hồn thi nhân. Tuy nhiên, cũng chính từ hiện thực ngắn ngủi đã mất đi đó (khứ) lại tạo nên một trạng thái khác, đó là sự trống vắng vĩnh viễn (đài không). Đó là sự tồn tại vĩnh viễn của không – thời gian vũ trụ.

Với sự sử dụng hai chữ sắckhông, ý niệm triết học về sự tồn tại đã được thể hiện hết sức sâu sắc trong thơ Đường. Thế giới quan Đường thi đã được mở rộng đến một chiều kích sâu lắng hơn qua ngôn ngữ. Trong mối quan hệ chuyển đổi cân xứng nhịp nhàng của hai yếu tố sắc không, con người tâm trạng và thế giới hiện tồn giao thoa với nhau. Chính mối quan hệ này đã là căn nguyên sâu xa nhất tạo nên hình tượng không – thời gian Đường thi.

3. Thơ Đường thể hiện tâm trạng của con người với muôn vàn sắc thái. Nhưng do chủ tâm xoáy sâu tới ý niệm về con người – vũ trụ nên Đường thi đặc biệt nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Thiên nhiên vừa là phông nền chứa đựng vừa bao trùm lên con người. Và có lẽ để chiến thắng nỗi sợ hãi về sự đối lập cách biệt đó, con người chủ trương xóa nhòa khoảng cách, quy tụ trong một mối thống nhất giữa bản thể với thiên nhiên. Chính vì vậy, mỗi cá thể trở thành một tiểu vũ trụ, thi nhân – nhà nghệ sĩ trở thành một “tiểu hóa công”, tồn tại trong thế đối sánh với đại vũ trụ, với toàn thể tạo hóa. Đây cũng chính là phương thức thể hiện sự tồn tại của các nhà thơ Đường, con người trong thơ Đường thực sự cố định một mối quan hệ hòa hảo với tự nhiên, đôi khi đạt đến mức cảm ứng cao độ. Do sự chi phối của những học thuyết như “Tề vật luận” của Trang Tử: “Thiên địa dữ ngã tịnh sinh, vạn vật dữ ngã vi nhất”. Hay như quan niệm của Lão Tử: “Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên”.

Đó là cả một chu trình vận động, trong đó tóm lược lại là “Nhân…pháp tự nhiên” (Con người phải tuân theo lẽ tự nhiên).

Từ những luận lý trên của các triết gia Trung Hoa cổ, chiếu sang nét nghĩa khu biệt “tồn tại”, “vĩnh viễn” của hai chữ sắckhông trong thơ Đường ta thấy rõ một thế giới tự nhiên vận động, phát triển theo quy luật, lưu động, tuần hoàn trong không – thời gian và qua đó, con người hiện lên sinh động, sâu sắc. Trong phạm vi nghiên cứu đặc trưng ý nghĩa của hai chữ sắc, không trong thơ Đường, chúng tôi nhận thấy yếu tố ngôn ngữ này tồn tại trong một không gian hỗn dung của ba giáo lý vĩ đại: Nho giáo, Phật giáo Đại thừa và Đạo giáo. Bởi vậy mà hai chữ sắc, không đã tích hợp được giá trị biểu trưng hết sức đặc biệt. Các nhà thơ Đường đã đồng quy hiện thực tâm trạng và bức tranh ngoại giới từ chính mối quan hệ thiết thân của con người với thiên nhiên. Đặc trưng thẩm mỹ độc đáo của thơ Đường có cơ sở từ đây.

Trong số những câu thơ có chứa chữ sắckhông thì đề tài biệt ly chiếm một vị trí đáng kể. Điều này cho thấy vai trò biểu hiện nội tâm một cách trực diện của yếu tố ngôn ngữ độc tôn này.

Người Trung Hoa có “văn hóa biệt ly” của riêng họ, trong tâm thức của những con

người uyên áo ấy, chia ly không chỉ là một hiện tượng đau buồn mà còn ẩn chứa đặc trưng tư duy văn hóa. Văn học là sự tự ý thức của văn hóa, con người tồn tại trong giá trị ứng xử chung với cộng đồng. Với thần phẩm “Khuê oán”, Vương Xương Linh đã thể hiện một cách sâu sắc mối hận biệt ly thấm đẫm chất nhân văn:

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc

Hối giao phu tế mịch phong hầu  

Đặt câu thơ trong mối liên kết nội tại của cả bài thơ ta sẽ thấy rõ bước chuyển  biến độc đáo của sắc thái tâm lý. Thơ Đường vốn chỉ gợi mà không tả, người đọc có khoái cảm dựng lên và thâm nhập vào bức màn hư ảo mà thơ Đường gợi mở. Vì vậy khi bắt gặp ẩn số “bất tri sầu” của người thiếu phụ, ta tạm thức nhận ba nguyên do: Người Trung Hoa có câu “thiếu nữ bi xuân” để nói lên sự e ngại thời gian của người con gái; Nhưng với sức sống của tuổi trẻ, người thiếu phụ không lo lắng về nỗi tuổi xuân trôi qua, nhan sắc úa tàn, thêm nữa, cuộc sống nơi phòng khuê, lấy điểm trang làm thú tiêu khiển cũng gạt bớt nỗi sầu; Cuối cùng, chính tâm lý của một người vợ chờ chồng “đi kiếm ấn phong hầu” với lý tưởng, niềm tin ở viễn cảnh tương lai đã đem đến cho con người niềm vui trong hy vọng, đợi chờ. Nhưng đến câu thơ thứ ba, chữ sắc được đặt ở cuối câu, một thanh trắc hiện diện vút lên như một điểm nhấn, tạo nên khoảng cách “đứt – nối” cho mạch thơ, trong khoảng “đứt” bất ngờ ấy lại hiện lên một sự kết nối được tạo nên từ “mối liên hệ bền chắc bên trong của tứ thơ và bước nhảy vọt chuyển hẳn sang cấp độ mới cao hơn, sâu hơn về hình tượng ý tưởng” [2, tr.15], mạch thơ đã được nối tiếp ngay từ điểm nhấn ấy: Hối giao phu tế mịch phong hầu. Sự hối hận của người thiếu phụ này chính là sự đổ vỡ của quan niệm sống, “dương liễu sắc” chỉ là cái cớ để phá vỡ qua! n niệm sống thường nhật. Hình ảnh này là một tín hiệu cần giải mã. Người Trung Hoa xa vẫn thường có phong tục: khi chia tay, người ở lại bẻ một cành dương liễu tặng cho người ra đi để biểu thị niềm lưu luyến (do trong tiếng Hán âm “liễu” và âm “lưu” đọc gần giống nhau). Vì vậy, trong thơ Đường, hình ảnh cành liễu hay động tác “chiết liễu”, là một ước lệ, tượng trưng cho sự ly biệt. Liễu là biểu tượng của mùa xuân, của biệt ly.

Từ những tín hiệu văn hóa đó, dịch chuyển sang góc độ ngữ nghĩa, ta thấy câu thơ

không thể dịch như Trần Trọng Kim: “Chợt nhìn bờ liễu xanh tơi” cũng như không nên xem “dương liễu sắc”“sắc màu dương liễu”; mà nên hiểu là sự hiện tồn của cành dương liễu trong mùa xuân. Liễu là báo hiệu của mùa xuân, đồng thời gợi nhắc bi kịch biệt ly, khiến con người bừng thức, tỉnh ngộ. Sắc ở đây chính là màu của nội tâm, của suy tưởng. Cảm nhận về bi kịch biệt li của con người gắn với hình ảnh liễu, Bạch Cư Dị đã thể hiện rõ sắc màu tâm trạng ấy:

     

Thanh thanh nhất thụ thương tâm sắc

Tằng nhập kỷ nhân ly hận trung 

Nếu như chữ sắc chú trọng vào điểm giúp cho con người nắm bắt được hiện thực tự nhiên trong cả quá trình đi từ giác quan bên ngoài đến chiều sâu nội tâm; thì chữ không, do chú trọng vào diện đã luôn tạo ra một trường cảnh khoáng đạt, rộng lớn trong thơ Đường. Thi tiên Lý Bạch với việc đặt chữ không ở giữa hai dòng thơ đã tạo nên thế đối sánh vũ trụ trong những câu thơ tống biệt nổi tiếng:

Cô phàm viễn ảnh bích không tận

Duy kiến Trường giang thiên tế lưu

Với trường hợp này, chúng ta vẫn thường “điểm huyệt” thần tự ở ngay chữ “cô” mà chưa thấy đúng trị giá của chữ không được sắp đặt một cách thần tình. Giữa hai dòng thơ đã xuất hiện cặp đối hết sức cân chỉnh: cô – duy; không tận – tế lưu. Ta có thể thấy ở đây trạng thái tồn tại vĩnh viễn của không gian. Cặp đối trên tạo nên sự bổ khuyết ngữ nghĩa, bên cạnh cái “khoảng không vô tận” là sự “tồn tại vĩnh viễn”. Dòng Trường Giang kia vẫn miệt mài lưu động, luân chuyển cũng như khoảng không trùm phủ lên nó vẫn mãi vô tận, không cùng. Tuy nhiên, cũng là cảm thức về vũ trụ nhưng nếu với con người phương Đông hiện đại, không gian rợn ngợp gây cho họ một nỗi sợ hãi, bơ vơ: Nắng xuống trời lên sâu chót vót, Sông dài trời rộng bến cô liêu (Tràng Giang – Huy Cận) và khiến họ phải hốt hoảng “Van lạy không gian xóa những ngày”; thì trong thơ Đường, con người cảm thấy gắn bó với không gian, “người Trung Quốc ở trong không gian thấy thân thuộc như trong lòng mẹ” [8, tr 21]. Tình bạn của Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên thăm thẳm như dòng sông, vô tận như bầu trời, sánh ngang tầm vũ trụ. Cổ nhân từng nói “Thi thành thảo thụ lưu thiên cổ”, huống nữa là mối tâm giao thắm thiết của những nhân cách lớn. Đó là giá trị tồn tại vĩnh cửu trong thế giới nội tâm con người còn được lưu giữ trong những câu thơ Đường.

4. Với một khối lượng tác phẩm đồ sộ, thơ Đường bao gồm rất nhiều nội dung khác nhau. Nhưng cho dù với nội dung đề tài gì thì con người tâm trạng vẫn luôn là hình tượng xuyên suốt, trung tâm của thế giới nghệ thuật thơ Đường. Vì vậy, trong phạm vi khảo sát, chúng tôi muốn đề cập đến phương diện bản thể con người gắn liền với tâm trạng cô sầu, được thể hiện rõ nét qua chữ sắc và chữ không – một phương diện đặc trưng nhất trong thơ Đường.

Các nhà thơ Đường đã gửi gắm trong thơ tất cả những trạng huống tình cảm cô sầu của bản thân. Có thể nói, sắc màu tâm trạng cô sầu đã gần như bao phủ lên toàn bộ thơ Đường. Điều này cũng dễ hiểu, vì con người phương Đông vốn trầm mặc và suy tư. Nỗi buồn mang thật nhiều sắc thái. Có nỗi buồn từ cảnh ngộ, nỗi buồn trong nhận thức hay nỗi buồn cảm khái trước tự nhiên… Khi bộc lộ tâm trạng cô đơn buồn sầu của con người, các chữ sắc, không thường đi kèm với những chữ có cùng trường nghĩa như: cô, sầu, độc, hận… Con người trong những vần thơ ấy tồn tại trong không gian suy tưởng, không gian tâm trạng. Lúc này con người là khách thể, bị chính tự nhiên chế ngự, phong tỏa. Ở những bài thơ Đường thể hiện tâm trạng cô đơn sầu muộn, ta nhận ra sự đồng điệu giữa các ý niệm sắc, không. Đối diện với tự nhiên bao la, rợn ngợp con người dễ bộc lộ bản ngã của mình hơn:

Không lý lưu sương bất giác phi

Đinh thượng bạch sa khan bất kiến

Giang thiên nhất sắc vô tiêm thần

Kiểu hiểu không trung cô nguyệt luân

(Xuân Giang hoa nguyện dạ – Trương Nhược Hư)

Ta bắt gặp sự hài hòa, đan kết giữa khôngsắc. Biên độ không gian được mở rộng ra đến mênh mông. Sự cộng hưởng ánh sáng của những vật thể có tính chất sắc màu đồng dạng (sương, cát, mặt sông, ánh trăng) càng làm tăng thêm cảm giác cô đơn, trống trải của con người. Chữ không được lặp lại liên tiếp đã thể hiện sự trống vắng, tô đậm thêm cảm giác cô đơn trong không gian. Thời gian, không gian như cô đặc, con người chìm đắm trong suy tưởng mênh mang. Hai chữ “nhất sắc” đã thể hiện cái nhìn đồng nhất, nối liền đất trời, cảm giác về ánh sáng trong và sắc càng trở lên lạnh lẽo, làm nổi rõ sự trơ trọi của vầng trăng khuya, từ đó chạy thẳng vào cái cô đơn trong tâm hồn thi nhân.

Thơ ca và hội họa vốn như cặp song sinh, cùng được sinh ra từ một cây bút lông và một thứ mực tầu. Đối với thơ Đường, câu chữ của thơ mang nghệ thuật của hội họa. Điều đó làm nên nền tảng của mối quan hệ tình – cảnh. Trương Nhược Hư bằng một họa pháp khoáng đạt lung linh đã vẽ nên bức tranh “đêm hoa trăng trên sông xuân” với sự độc chiếm của vầng trăng cô đơn, chiếu ứng cùng tâm trạng cô sầu và nỗi nhớ nhung da diết của con người.

Ngoài mối giao cảm thường trực với thiên nhiên, các nhà thơ Đường có nhiều cách để đối diện với nỗi cô đơn. Với thi tiên Lý Bạch, rượu là cách tốt nhất để ông quên đi thực tại đau buồn. Nhưng khi nỗi cô đơn đã xâm chiếm vào tận tâm can thì càng uống lại càng buồn, càng ý thức được rõ hơn bao giờ hết sự cô đơn, trống trải trong tâm hồn:

 

Cô vân hoàn không sơn

Chúng điều các dĩ quy

(Xuân nguyệt độc chước)

Càng say con người lại càng thêm đau buồn: “cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu”. Đó là nỗi buồn quá lớn lao của con người bất đắc chí. Tác giả cảm cái cảnh xuân mà buồn về nỗi mình phải phiêu đãng. Trong thế đối sánh với tự nhiên (đám mây, đàn chim) ông càng ý thức rõ hơn trạng thái cô lẻ của bản thân. Chữ không hiện diện càng làm đậm thêm cho sắc thái của chữ . Nỗi lòng trống vắng mênh mang cứ thế cuộn dâng nhưng không có cách nào hóa giải.

Người Trung Hoa vốn có ý thức về gia đình gia tộc rất mạnh mẽ [5], bởi vậy trong

thơ Đường, ta luôn thấy lòng cô sầu gắn với cảnh huống tha hương:

Tam Tương sầu mấn phùng thu sắc

Vạn lý quy tâm đối nguyệt minh

“Thu sắc” là sự tồn tại của mùa thu, là dấu ấn vĩnh quyết, tác động trực diện, mạnh

mẽ đến con người. Thông qua nỗi buồn tha hương, nhớ cố hương là sự lên án chiến tranh vô nghĩa, luôn gây nên bi kịch cho con người. Thương nhớ quê hương mà chỉ mong được trở về giãi bày cùng ánh trăng (thuộc về vũ trụ) đã cho thấy sự lấn át của không gian vũ trụ trong thơ Đường, “vũ trụ là biểu trưng cho tâm hồn, là phạm vi hầu như và duy nhất để con người cảm thụ nhân sinh” [8].

Nghệ thuật có sự bất tử, có đời sống riêng, chiếu ứng lịch sử song không phải là nô lệ hay bản sao của lịch sử. Trong sự phản ánh sinh động, sâu sắc, thơ Đường gắn bó với triều đại Đường ở nhiều phương diện khác nhau. Hiện thực cuộc sống tươi đẹp, thơ sẽ vang lên những khúc ca vui, còn nếu cuộc sống bi đát, thống khổ thơ sẽ là thứ ngôn ngữ “cận nhân tình” nhất. 

Thời đại nhà Đường là một thời kỳ hết sức đặc biệt trong lịch sử dân tộc Trung Hoa. Trong thời đại này, chiến tranh xảy ra liên miên, mà hầu hết đều là những cuộc chiến phi nghĩa, đời sống nhân dân vì vậy mà vô cùng điêu linh. Nhiều nhà thơ cùng chung số phận, bị hiện thực cuộc sống đầy đọa trong vòng đói khổ. Hiện thực chiến tranh trở thành một đề tài lớn, gắn với đỉnh cao của thơ phản ánh hiện thực trong thơ Đường là thi thánh Đỗ Phủ. Chính hoàn cảnh cuộc sống éo le khổ ải đã là nguồn tư liệu phong phú cho ông viết nên những vần thơ đầy nước mắt:

Nhập môn y cựu tứ bích không

Lão thê đổ ngã nhan sắc đồng

(Bách ưu tập hành)

Câu thơ cho thấy hình ảnh khốn khổ, điêu đứng của những con người thời loạn. Chính bản thân nhà thơ phải chịu đựng những điều khổ sở đó nên sự miêu tả trở nên chân thực và chua xót hơn. Hai chữ sắc, không hợp với “y cựu” tạo nên trạng thái tồn tại không suy chuyển của không gian, thời gian, đã cho thấy số phận khốn khổ kéo dài của những con người thời đại tao nhiễu.

Phản ánh những bi kịch của con người cũng là một nhiệm vụ thiêng liêng của văn

học. Với thơ Đường, như một lẽ tự nhiên, thường được các nhà thơ quan tâm hơn chính là bi kịch của những người phụ nữ nhỏ bé và yếu ớt. Chùm thơ “Tây cung oán” của Vương Xương Linh đã thực sự thành công khi đi sâu đặc tả tâm trạng của người cung nữ bị vua lãng quên, phải cam chịu cảnh sống cô đơn vò võ một mình:

Tà bão vân hòa thâm kiến nguyệt

Mông lung thụ sắc ẩn Chiêu Dương

(Tây cung xuân oán)

Khước hận hàm tình yểm thu phiến

Không huyền minh nguyệt đãi quân vương

(Tây cung thu oán)

Chữ sắckhông được dùng đắc địa, đã tô đậm thêm cho hiện thực cuộc sống trong mỗi trang thơ. Cây cối mờ mịt, mông lung, ánh trăng huyền hồ cô đơn trong đêm khuya thanh vắng, lạnh lẽo như chính cuộc đời lay lắt, hẩm hiu của người cung nhân. Giá trị khu biệt ý nghĩa độc đáo của hai chữ sắc, không thực sự tạo nên những trường liên tưởng hết sức sâu sắc cho thơ Đường.

5.  Tham gia vào thơ Đường như một yếu tố độc quyền sử dụng, hai chữ sắc, không đã phục vụ đắc lực cho mục đích chiếm lĩnh hiện thực một cách nghệ thuật của thơ Đường. Với tư duy quan hệ độc đáo, thơ Đường thể hiện một cách thường trực những cặp đẳng thức đối lập, để rồi qua đó tìm ra sợi dây liên kết nội tại của chúng. Với cái nhìn vũ trụ, Lý Bạch đã đặt con sông hữu hạn bên cạnh bầu trời vô hạn nhưng không nhằm đối lập mà là để đồng nhất chúng:

Cô phàm viễn ảnh bích không tận

Duy kiến Trường giang thiên tế lưu

Sự cộng hưởng cuối cùng là để tạo nên một không gian vũ trụ toàn vẹn, thể hiện cách chiếm lĩnh thông qua trường nhìn bao quát toàn cảnh của thi nhân. Đồng nhất hóa thực và mộng (thực – hư) cũng là một cách chiếm lĩnh hiện thực hết sức đặc trưng của thơ Đường. Nói như F. Cheng: “Với sự có mặt của cái hư, một loại chiều thứ năm, nhà hoạ sĩ nhằm thống nhất không gian và thời gian” (Dẫn theo [8]).

Để dựng lên mối liên hệ liên tục, hoàn mỹ, Tào Đường trong loạt 4 bài thơ “Lưu, Nguyễn du tiên” đã đồng nhất hóa hiện thực với thái hư, không gian thơ được bao phủ một sắc màu huyền ảo, lung linh. Trong sự nhận thức của con người trần tục, không gian huyền hoặc, cô đặc nơi tiên cảnh đã tạo lên cảm giác choáng ngợp:

Yên hà bất tỉnh sinh tiền sự

Thuỷ mộng không nghi mộng hậu thân

(Lưu, Nguyễn du thiên thai)

Thiên hòa thụ sắc ái thương thương

Hà trọng lam thâm lộ điểu mang

(Lưu, Nguyễn trung lộ tiên tử)

Cả không gian và sắc màu ở đây đều là những cái không có thực, vừa như tồn tại lại như không, con người bị chế ngự bởi thiên nhiên, tâm thần ngập chìm trong cõi thái hư cảnh ảo, thực với mộng đã thực sự hợp nhất làm một.

Bên cạnh đó, một biểu hiện phổ biến nhất của các đẳng thức đối lập trong thơ Đường chính là sự thể hiện mối quan hệ giữa tĩnh và động, giữa cái vô thanh với cái hữu thanh:

Nhân nhàn quế hoa lạc

Dạ tĩnh xuân sơn không

Nguyện xuất kinh sơn điểu

Thời minh tại giản trung

(Điểu minh giản – Vương Duy)

Bài thơ thể hiện hết sức rõ nét thế giới quan, nhân sinh quan của thi Phật Vương Duy. Mang tư tưởng Phật học, thi nhân luôn nhìn vạn vật trên góc độ tĩnh hóa. Tâm nền của bài thơ là “dạ tĩnh”, “sơn không”, “nhân nhàn” đã được đặc tả hết sức thần tình qua những cái động hết sức khẽ khàng, tế vi: “hoa lạc”, “nguyệt xuất”, “thời minh”. Chữ không trong “sơn không” là sự bổ trợ thần diệu cho “dạ tĩnh”. “Sơn không” chính là trạng thái vũ trụ đứng yên. Với sự mẫn cảm thường thực trong tâm hồn của phương Đông, thi nhân đã lắng nghe vũ trụ – lắng nghe bằng tâm linh. Từ sự lắng nghe ấy, thi nhân đã đẩy sự cực tả lên đến độ “vô thanh” – cung âm thanh tuyệt đích nhất và “vô ảnh” – cảnh sắc nội tâm tuyệt mỹ nhất. Ý niệm về sự tồn tại đa chiều của tâm trạng được thể hiện qua sự tĩnh hóa cái “động” và động hóa cái “tĩnh”. Ấn tượng về sự yên ắng càng trở lên đậm nét hơn khi bất ngờ xuất hiện trạng thái động của tự nhiên: “nguyệt xuất”. Tuy nhiên, đây không phải là sự thay thế một trạng thái này bằng một trạng thái khác mà rõ ràng là sau khi trăng lên cùng mấy tiếng chim kêu tha thướt, thì núi xuân lại càng chìm vào tịch mịch, âm u. Sự giao hòa tuyệt đẹp giữa thanh tâm và dạ tĩnh đã làm nên vẻ đẹp trầm mặc trong trẻo cho bức tranh thiên nhiên. 

Ở thời Đường, Phật giáo thực sự hưng thịnh. Cùng với Đạo giáo và Nho giáo, Phật giáo được nuôi dưỡng trong một bầu không khí tôn giáo cởi mở của thời đại. Nhưng khái niệm sắckhông trong Phật giáo có ý nghĩa hết sức cao siêu, nếu có xuất hiện thì cũng nằm gọn trong dòng văn học chức năng truyền thụ giáo lý để giác ngộ nhân tâm. Bản thân Vương Duy là nhà thơ chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo, thơ ông mang đậm ý vị thiền. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy trong các bài thơ của ông có sự xuất hiện của một số lượng lớn những chữ sắc, không. Mặc dù vậy, sắc -  không trong thơ ông mang một ý vị triết học, một ý nghĩa nhân sinh và nghệ thuật riêng biệt của Đường thi, hoàn toàn khác với quan niệm sắckhông trong triết thuyết nhà Phật.

Các mối quan hệ đối lập đặc trưng hữu hạn và vô hạn, còn và mất, quá khứ và hiện tại,… được thể hiện một cách sâu sắc ở kiệt tác Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu:

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ

Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản

Bạch vân thiên tải không du du

Xét ở phương diện ngôn từ và luật thơ, hai câu thơ đầu không phải là một vế đối cân chỉnh. Thêm nữa, thơ Đường tối kị lặp từ ngữ, ấy thế mà chỉ trong bốn dòng thơ có tới ba lần lặp từ Hoàng hạc và hai lần lặp từ không. Tác giả dường như đã không dụng công gò chữ vào khuôn phép quy phạm chật chội, mà để cho tứ thơ tự mang chuyển sức nặng tư tưởng. Ở đây “không dư”“không du du” đều chỉ trạng thái tồn tại vĩnh viễn, “không dư” là còn lại mãi mãi, “không du du” là muôn đời trôi lơ lửng. Từ láy âm “du du” đã cộng hưởng với trạng thái không gian gợi lên cái mênh mang của đất trời, cái bâng khuâng của con người. Hình tượng “không- thời gian” trong thế giới nghệ thuật thơ Đường đã hiện lộ với tất cả ý nghĩa biểu trưng gắn liền với ý niệm về vũ trụ, về con người nằm ở điểm giao thoa của trục không gian (không) và trục thời gian (sắc). Do đó, giữa thế giới nội tâm con người và thế giới tự nhiên đã có sự nhập cảm. Vũ trụ – tự nhiên đã đi trên một con đường riêng, chuyển hóa thành vũ trụ – tâm linh trong Đường thi. Nó quy định hướng nhìn hiện thực, cách tiếp cận hiện thực của các nhà thơ Đường.

Như ý của nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra, dưới sự chi phối của tư duy đồng nhất các mặt đối lập, thơ Đường đi theo tuyến logic riêng của nó. Nếu không xác định tính thống nhất này như một tiên đề thì sẽ thấy thật khó khăn khi tiếp nhận thơ Đường. Khi Lưu Trường Khanh viết : 

 Phi điểu một hà xứ ? 

 Thanh sơn không hướng nhân

thì đó cũng chính là một sự thể hiện phi logic. Bởi lẽ trong thực tế chỉ có con người mới biết hướng về ngọn núi, nhưng ở đây chính là “non xanh quay lại phía người bâng khuâng”. Vật vô tri vô giác là ngọn núi đã được phổ cho nét tính cách của con người, hay nói đúng hơn là thi nhân đã đồng nhất hiện thực tâm trạng với ngoại giới, tạo thành mối liên kết logic ngay trong những gì tưởng như phi logic.

 

Đến với Biên tứ của Trương Kính Trung ta lại bắt gặp hình ảnh đối lập tương phản do độ chênh trong không gian dẫn đến sự khác biệt về thời gian dù đang ở trong cùng một thời điểm:

Ngũ nguyên xuân sắc cựu lai trì

Nhị nguyệt thuỳ dương vị quải ti

Tức kim hà bạn băng khai nhật

Chính thị Trường An hoa lạc thì

Nơi này đông chưa qua mà nơi kia xuân đã sắp tàn. Con người cô đơn và bất lực trong không gian, ẩn chứa một tâm trạng thất vọng, chờ mong. Cảnh biên cương hoang vắng muộn màng càng làm tăng thêm nỗi buồn nhớ Trường An. “Xuân sắc” ở Ngũ Nguyên tưởng như không còn là màu xuân nữa, mà xuân đến chậm ngỡ như xuân không tồn tại vậy.

Như vậy, nằm trong sự thể hiện phi logic và đối lập tương phản, hai chữ sắc, không trong thơ Đường đã chứng tỏ giá trị sử dụng khu biệt và độc đáo. Đây là một trong những yếu tố thể hiện tập trung nhất cho đặc trưng tư duy của con người Trung Hoa trong thơ Đường, góp phần làm nên sức sống bất diệt của cả một thời đại thi ca.

III. KẾT LUẬN

Sự kết hợp hoàn mỹ giữa nội dung tư tưởng và hình thức biểu hiện đã làm nên sức

quyến rũ của thơ Đường. Đặt vấn đề nghiên cứu giải mã Đường thi cần phải xuất phát từ các yếu tố đã cấu thành nên hệ thống. Với ý nghĩa đặc trưng khu biệt, thể hiện cho ý niệm về sự tồn tại và bộc lộ nội tâm của con người phương Đông, hai chữ sắc, không là một yếu tố có thể gợi ý cho ta đi đến nắm bắt chỉnh thể từ bộ phận. Xem thế, việc tìm kiếm những yếu tố ngôn ngữ chứa đựng sức nặng tư duy, tồn tại như một “mã” ngôn ngữ – văn hóa sẽ có thể giúp tìm được chìa khóa mở cánh cửa vào thế giới Đường thi.

THƯ MỤC THAM KHẢO

[1]. Đào Duy Anh. Hán Việt từ điển.

[2]. Phạm Hải Anh. Bút pháp chấm phá trong cấu tứ thơ Đường. Tạp chí Văn học, số 10 năm 1994.

[3]. Trần Trọng Kim. Đường thi, Nxb Văn hóa Thông tin, H. 1994

[4]. D.S. Likachev. Văn hóa là một môi Trường thống nhất. Tạp chí Văn học, số 3 năm 1996.

[5]. Hà Minh. Sự khác biệt của văn hóa Trung Quốc với các nền văn hóa khác. Tạp chí khoa học. ĐHSP Hà Nội, số 5-2004.

[6]. Nhiều tác giả. Thơ Đường, tập I, II, Nxb Văn học, Hà Nội, 1987.

[7]. Nguyễn Khắc Phi. Thơ văn cổ Trung Hoa, mảnh đất quen mà lạ. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999.

[8]. Nguyễn Khắc Phi – Trần Đình Sử. Về thi pháp thơ Đường, Nxb Đà Nẵng, 1996.

[9]. Lê Thị Phương. Hai chữ sắckhông trong thơ Đường – khảo sát và phân tích. (Báo cáo khoa học). Phòng tư liệu khoa Ngữ văn – ĐHSP Hà Nội.

[10]. Nhữ Thành. Thử tìm hiểu tứ thơ trong thơ Đường. Tạp chí Văn học số 1, 1982.

[11]. Nguyễn Thị Tuyết. Chữ “cô” trong thơ Đường. (Báo cáo khoa học). Phòng Tư liệu khoa Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội.

[12]. Kim Cương Tử (chủ biên). Từ điển Phật học Hán Việt. Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nxb KHXH. Hà Nội, 1998.

[13]. Từ hải và Từ nguyên. Trung Hoa thư cục.

TÓM TẮT

Nhận gợi ý từ các công trình và ý kiến nghiên cứu về thơ Đường của các nhà nghiên cứu đi trước, bài viết bước đầu khảo sát và phân tích hai chữ sắc không trong Đường thi, từ đó gián tiếp nêu một hướng tiếp cận thơ Đường từ góc nhìn ngôn ngữ – văn hóa. Những ý kiến nêu ra trong bài viết mới chỉ là những phác thảo sơ bộ.

 

SUMMARY

STUDY AND ANALYSIS OF THE TWO WORDS “APPEARANCE” AND “NON-EXISTING” IN THE POETRY OF DUONG EPOCH

Le Phuong, Ha Minh

Refering to suggestions and thoughts, as well as to opinions of searchers of Duong

poetry in the past, the author of this article tries to define and analyze the two words “Appearance” and “Non-existing” in Duong poetry. From there, he draws a new direction of approach at the linguistic and cultural angle. The opinions expressed in the article are thought to be only preliminary sketches.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét