Sự giàu có không dò được của Chúa Cứu Thế trong các sách tiên tri
Sách Đa-ni-en
H ộ i n g h ị m ù a x u â n n ă m 2 0 1 0 t ạ i S t u t t g a r t
Chương 1 – Lời mở đầu
Đối với thời gian này, chúng ta không chỉ muốn đến các buổi nhóm và nghe các thông điệp, mà còn muốn cầu nguyện với nhau càng nhiều càng tốt. Chúng ta cần phải cầu nguyện nhiều để Chúa hiện ra với tất cả chúng ta và nói với chúng ta thông qua sách Đa-ni-en. Cho nên, chúng ta hãy dâng thật nhiều nhũ hương trước bàn thờ dâng hương bằng vàng.
Trong hội nghị này, chúng ta sẽ không xem xét mọi chi tiết trong sách Đa-ni-en được. Chúng ta cũng không ở đây để nghe một số điều gì đó về các điều tiên tri trong sách này. Thấy và hiểu điều mà Chúa muốn làm ngày nay, thật quan trọng đối với chúng ta, chứ không phải những điều mà Ngài đã làm trong quá khứ.
Chúng ta đang sống trong thời gian mà Chúa sắp trở lại. Trước kia tôi thường ghen tị với các môn đệ, vì họ được thường xuyên ở bên cạnh Chúa. Nhưng tôi đã nhận ra rằng, thật là một đặc quyền khi được sống trong thời gian mà mọi thứ trở nên chín muồi. Hội Thánh trong thời gian này cũng sẽ trưởng thành, điều này có nghĩa là chúng ta có thể trở thành trái đầu mùa. Trong quá khứ, không ai trong số các thánh đồ đã chết có được cơ hội này, tất cả họ đều phải nếm mùi sự chết. Ngày nay, việc trải nghiệm sự đến của Chúa mà không cần phải thấy cái chết trước tiên là điều có thể. Vì vậy, thời gian chúng ta đang sống ngày nay rất đặc biết, và chúng ta muốn cảm tạ Chúa về điều này cũng như cầu nguyện nhiều để chúng ta đến được mục tiêu.
Nhiều năm trước, khi đọc sách Đa-ni-en, tôi đã rất ấn tượng rằng, Thiên Chúa của chúng ta thật tuyệt vời. Chỉ mình Thiên Chúa hằng sống mới có thể biết trước mọi sự. Toàn bộ lịch sử của nhân loại đã được Ngài nói trước rõ ràng. Ngoài Thiên Chúa hằng sống ra, ai có thể nói trước được thời gian từ vua Na-bu-cô-đô-nô-xo cho tới ngày nay, tức là lịch sử trong khoảng 2600 năm.
Một số giai đoạn của lịch sử thậm chí được Thiên Chúa mô tả chi tiết, đã đưa đến nhiều tranh luận về sách Đa-ni-en. Thậm chí, một số người cho rằng, tất cả được viết sau khi đã xảy ra. Trong lúc chuẩn bị cho hội nghị, tôi cũng đã suy nghĩ về điều này và tra cứu một số sách có liên quan, cho đến khi Chúa khiển trách tôi: Con không tin đó là lời Ta sao? Hãy đọc trong Mát-thêu 24:15: “Vậy, khi anh em thấy đặt trong nơi thánh Đồ Ghê Tởm Khốc Hại mà ngôn sứ Đa-ni-en đã nói đến người đọc hãy lo mà hiểu“. Do đó tôi phải ăn năn. Khi Chúa đã trích dẫn sách Đa-ni-en, đó đủ là bằng chứng cho chúng ta rằng Đa-ni-en là một tiên tri của Chúa.
Sách Đa-ni-en này là một bằng chứng tuyệt vời, chứng tỏ Thiên Chúa là một Thiên Chúa hằng sống, Đấng biết tất cả mọi việc sẽ xảy ra trong tương lai. Trong Isaia 41:21-23, chúng ta thấy: “ĐỨC CHÚA phán: Hãy trình bày vụ kiện của các ngươi! Đức Vua nhà Gia-cóp truyền: Hãy đưa ra luận chứng! Chúng cứ đưa ra, và báo cho chúng tôi rõ những gì sẽ xảy đến!Đã có những điềm nào báo trước,cứ nói đi, rồi chúng tôi sẽ quan tâm, và biết rõ hậu vận thế nào;hay là cứ kể cho chúng tôi nghe những gì sẽ xảy đến“. Ai có thể cho chúng ta biết tương lai? Ngoài Thiên Chúa ra, không có ai cả. Chúng ta phải ngợi khen Chúa vì chúng ta có quyển sách Đa-ni-en này, bởi vì trong đó Chúa đã chỉ cho chúng ta thấy nhiều điều cho tới lần đến thứ hai của Chúa. Vì đang sống ở cuối thời đại này, chúng ta phải hiểu điều mà Chúa muốn nói với chúng ta.
I. Bối cảnh
Bối cảnh của quyển sách này là cảnh tù đày tại Ba-by-lon – một thời kỳ khủng khiếp đối với dân của Thiên Chúa lúc đó. Lý do cho sự tù đày này là gì? Tội lỗi và sự nổi dậy của dân Ít-ra-en chống lại Thiên Chúa.
Trong bài hát của Mô-sê (Đệ Nhị Luật 32), Chúa đã nói tiên tri rằng, dân Ngài sẽ nổi loạn và đi theo các thần khác, rằng họ thờ lạy ma quỷ, dâng con mình để cúng các hình tượng, sau đó Thiên Chúa sẽ đem họ vào cảnh tù đày. Chúng ta không được phép nghĩ rằng điều này chỉ xảy ra đối với dân Ít-ra-en thời đó thôi. Chúng ta cũng nổi loạn, sa ngã, tội lỗi và theo xác thịt. Chúng ta nghĩ mình yêu Thiên Chúa và cùng lúc yêu nhiều điều khác. Lịch sử 2000 năm qua nói lên Ky-tô hữu cũng bị rơi vào cảnh tù đày ra sao.
2.Sử Biên 36:11-16: ” Xít-ki-gia-hu lên ngôi vua khi được hai mươi mốt tuổi, và trị vì mười một năm ở Giê-ru-sa-lem. Vua đã làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của vua, và không chịu hạ mình xuống trước mặt ngôn sứ Giê-rê-mi-a là người đã nói nhân danh ĐỨC CHÚA. Mặc dù vua Na-bu-cô-đô-nô-xo bắt vua phải thề nhân danh Thiên Chúa, nhưng vua vẫn nổi lên chống lại, và còn cứng đầu cứng cổ, lòng chai dạ đá, không chịu trở về cùng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa Ít-raen. Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà ĐỨC CHÚA đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế. ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của tổ tiên họ vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến ĐỨC CHÚA bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa“. Anh em có tưởng tượng được là dân Ít-ra-en sa ngã đến nỗi thỉnh thoảng họ còn làm nhiều điều tồi tệ hơn các dân ngoại bang không? Cuối cùng, họ đã cúng con trai và con gái của mình cho ma quỷ, và Thiên Chúa đã dùng Na-bu-cô-đô-nô-xo để đem họ vào cảnh tù đày. Rất nhiều dân Ít-ra-en thời đó hoặc bị giết hoặc bị đày qua Ba-by-lon. Thiên Chúa quyền năng đã để dân mình bị đánh bại, vì họ đã không trung tín, phản nghịch và phạm tội cùng Ngài.
Thiên Chúa muốn có một dân tộc thánh, có một quốc gia thánh, tương ứng với Ngài, một dân thuộc về Ngài, hoàn toàn dành riêng cho Ngài. Bao nhiêu thánh đồ hiện nay có được ý thức và ước muốn này! Có phải chúng ta không chạy theo xu hướng của thế gian này và cũng không muốn giống người khác không? Nhưng Lời Chúa cảnh báo rằng: “Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha” (1.Gioan 2:15), hay “… các người không biết rằng: yêu thế gian là ghét Thiên Chúa sao? Vậy ai muốn là bạn của thế gian thì tự coi mình là thù địch của Thiên Chúa” (Gia-cô-bê 4:4), và “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần…” (Rô-ma 12:2).
Chúa có được gì nếu Hội Thánh Ngài bị giống thế gian này? Những gì thuộc về Ngài phải thánh, vì Ngài là thánh (1.Phê-rô 1:16) – cả dân trong Cựu Ước lẫn trong Tân Ước. Chúng ta đọc thấy gì trong 1.Phê-rô chương 2, câu 5 và câu 9? Chúng ta được chọn lựa, là dân tộc thánh, là thầy tế lễ hoàng gia và là một dân thuộc về Thiên Chúa. Một cuộc sống mà chỉ có hưởng thụ là mục tiêu thì sẽ mau dẫn đến cảnh tù đày. Chúng ta tuy muốn sống trong tâm linh (linh hồn), nhưng cũng không muốn hoàn toàn từ bỏ thế gian. Chúng ta có cần phải hỏi tại sao Hội Thánh không tiến lên không? Chúng ta có thực sự hiểu lòng của Chúa chúng ta không? Vì vấn đề là ở điều này.
Trong Khải Huyền chương 2 và 3, chúng ta thấy được Chúa cũng đã cảnh báo Hội Thánh Ngài trong vùng Tiểu Á ra sao. Tuy nhiên, họ đã không ăn năn và quay trở lại. Ky-tô hữu chúng ta ngày nay cũng bướng bỉnh, nặng tai và nổi loạn làm sao. Chúng ta có thể thấy điều này trong cuộc sống thường ngày của mình, là Hội Thánh của Chúa, chúng ta thường nổi loạn chống lại Lời Ngài ra sao.
Sự lưu đày sang Ba-by-lon xảy ra trong năm 606 trước CN và là sự khởi đầu của một cảnh tù đày kéo dài của dân Thiên Chúa. Mỗi lời, mà Thiên Chúa nói thông qua các tiên tri, đã ứng nghiệm.
II. Ý nghĩa thuộc linh của Ba-by-lon
Kể cả ngày nay cũng có một Ba-by-lon, cụ thể sự tù đày thuộc linh đã được Khải Huyền 17 mô tả là con đại điếm: “Bấy giờ, trong số bảy thiên thần mang bảy chén, một vị đến bảo tôi: Lại đây, tôi sẽ chỉ cho ông thấy Con Điếm khét tiếng, đang ngồi bên những làn nước mênh mông, bị xét xử như thế nào. Vua chúa trần gian đã làm chuyện gian dâm với nó, và những người sống trên mặt đất đã say vì thứ rượu là sự gian dâm của nó. Rồi đang khi tôi xuất thần thì thiên thần đem tôi vào sa mạc. Ở đó tôi thấy một người đàn bà, ngồi trên một Con Thú đỏ thẫm, con Thú ấy mang đầy những danh hiệu xúc phạm đến Thiên Chúa, và có bảy đầu mười sừng. Người đàn bà mặc áo đỏ tía và đỏ thẫm, trang sức toàn bằng vàng, đá quý và ngọc trai, tay cầm một chén vàng đầy những thứ ghê tởm và ô uế, tức là sự gian dâm của nó. Trên trán nó, có viết một tên mang ý nghĩa huyền bí: Ba-by-lon vĩ đại, mẹ của các con điếm và các thứ ghê tởm trên trần gian.Tôi thấy người đàn bà ấy say máu dân thánh và máu các chứng nhân của Đức Giê-su. Thấy nó, tôi rất đỗi ngạc nhiên” (Khải Huyền 17:1-6). Điều Thiên Chúa đã chỉ cho Gioan trong Khải Huyền cũng tương tự với những điều được nói trong sách Đa-ni-en. Đa-ni-en là Gioan của Cựu Ước và Gioan là Đa-ni-en của Tân Uớc. Cả hai đều nói rất rõ ràng về tương lai. Đa-ni-en được cho thấy những gì sẽ xảy ra vào thời Cựu Ước cho đến lúc Chúa đến lần đầu. Và Gioan đã thấy những gì xảy ra từ lúc Chúa thăng thiên đến lần tới thứ hai của Chúa, thậm chí cả vương quốc ngàn năm và Giê-ru-sa-lem Mới. Sự khải thị ! của Gioan là sự tiếp tục của những gì Thiên Chúa đã chỉ cho Đa-ni-en thấy. Nếu mang hai quyển sách này lại với nhau, chúng ta sẽ thấy lịch sử của dân Thiên Chúa trong mọi sự rõ ràng. Chúng ta phải nhận biết nó và xem trọng rằng ngày nay cũng có một sự tù đày, là Ba-by-lon thuộc linh. Vì nếu chúng ta không thấy, sẽ có một mối nguy hiểm rằng chúng ta cũng bị rơi vào cảnh tù đày này.
Gioan đã sửng sốt làm sao khi được thấy những khải thị này. Trong sách Đa-ni-en, chúng ta cũng thấy rằng, ông bị kinh hoàng và bị mất an vì suy nghĩ của mình về những điều Thiên Chúa đã chỉ ông. Ông thậm chí bị ngất đi khi thấy những điều sẽ xảy ra với dân tộc mình, với Giê-rusa-lem, là đền thờ của Thiên Chúa và là thành thánh. Chắc chắn, ông thật khó tin là mọi điều sẽ ứng nghiệm. Ông yêu Thiên Chúa và dân Ngài, và cầu nguyện mỗi ngày cho Giê-ru-sa-lem.
Chúng ta thấy nguồn gốc và tên của Ba-by-lon trong Sáng Thế Ký 11:1: “Thuở ấy, mọi người đều nói một thứ tiếng và dùng những từ như nhau“. Ngày nay, nhiều Ky-tô hữu không nói cùng một ngôn ngữ (thuộc linh), mà mỗi người có ngôn ngữ của riêng mình. “Trong khi di chuyển ở phía đông, họ tìm thấy một đồng bằng ở đất Sin-a và định cư tại đó. Họ bảo nhau: “Nào! Ta đúc gạch và lấy lửa mà nung! “Họ dùng gạch thay vì đá và lấy nhựa đen làm hồ. Họ nói: “Nào! Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời“. Đó là mục tiêu của họ! ” Ta phải làm cho danh ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất.”ĐỨC CHÚA xuống xem thành và tháp con cái loài người đang xây” (câu 2-5). Ngày nay cũng vậy, mỗi người đều muốn làm việc riêng của mình và làm rạng danh mình. Đó là nguyên tắc của Ba-ben!
” ĐỨC CHÚA phán: “Đây, tất cả chúng nó họp thành một dân, nói một thứ tiếng. Chúng mới khởi công mà đã như thế thì từ nay, chẳng có gì chúng định làm mà không làm được. Nào! Ta xuống và làm cho tiếng nói của chúng phải xáo trộn, khiến chúng không ai hiểu ai nữanói của chúng phải xáo trộn, khiến chúng không ai hiểu ai nữa 7). Một dấu hiệu của Ba-by-lon là sự rối loạn về ngôn ngữ. Ngày nay cũng vậy. Mỗi người có quan điểm và sự diễn dịch riêng của mình. Mỗi người hiểu khác nhau. Mỗi người có hướng của mình, có gánh nặng riêng, có sứ mệnh riêng và có công việc riêng. Người này không còn hiểu những người khác nữa, hậu quả là sự tản lạc.
” Thế là ĐỨC CHÚA phân tán họ từ chỗ đó ra khắp nơi trên mặt đất, và họ phải thôi không xây thành phố nữa. Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Ba-ben, vì tại đó, ĐỨC CHÚA đã làm xáo trộn tiếng nói của mọi người trên mặt đất, và cũng từ chỗ đó, ĐỨC CHÚA đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất” (câu 8-9).
Tuy nhiên, đáng lẽ phải thật đơn giản đối với Ky-tô hữu chúng ta để sống với nhau trong sự hiệp nhất. Tất cả chúng ta không cùng tin một Thiên Chúa hằng sống sao? Và Chúa Cứu Thế Giê-su không phải là Đấng Cứu Rỗi của tất cả chúng ta sao? Anh em có nhận một Thánh Thần khác với tôi nhận không? Không phải chúng ta có cùng một quyển Kinh Thánh sao? Thế thì tại sao chúng ta không thể là một? Tại sao Ky-tô hữu lại phân rẽ hơn bất cứ tổ chức hoặc dân tộc nào trên thế giới? Như vậy chính là Ba-by-lon! Thời đó, họ đã là một dân với một ngôn ngữ, nhưng sau khi xây tháp Ba-ben, Thiên Chúa đã làm họ tản lạc khắp thế gian. Nhiều ngôn ngữ và nhiều dân tộc xuất hiện, để rồi dân tộc này không còn hiểu dân tộc khác nữa. Đó không phải là sự chúc phước của Chúa, mà là một hình phạt, một sự phán xét. Ngay cả 2000 năm qua, chúng ta cũng không nhận ra rằng, chúng ta, dân tộc thánh của Thiên Chúa lại phân rẽ như vậy, rằng chúng ta thực sự đang ở trong cảnh tù đày.
Trong Khải Huyền 17, Chúa chỉ chúng ta “Trên trán nó, có viết một tên mang ý nghĩa huyền bí: “Ba-by-lon vĩ đại, mẹ đẻ ra các gái điếm và các thứ ghê tởm trên trần gian” (câu 5). Ở đây chúng ta lại thấy Ba-by-lon, không phải là Ba-by-lon thời đó, mà là Ba-by-lon thuộc linh hôm nay, mẹ của các con điếm thuộc linh, có nghĩa là sự trộn lẫn với nhiều thứ của con người, của chính trị và kinh tế, những điều đã lẻn vào Hội Thánh ban đầu, tinh sạch và thánh khiết, để rồi cuối cùng phát triển thành Công Giáo La Mã. Vậy vương quốc thiên thượng là La Mã hay Đức hay Anh Giáo? Chúng ta phải nhận ra rằ! ng có một Ba-by-lon thuộc linh và phải xem trọng Lời Chúa trong Khải Huyền 18:4-5: “Rồi tôi nghe một tiếng khác từ trời bảo: “Hỡi dân Ta, hãy ra khỏi thành ấy đi, để khỏi thông đồng với tội lỗi của nó và hứng lấy những tai ương dành cho nó! Thật vậy, tội lỗi của nó đã chồng chất lên đến tận trời, và Thiên Chúa đã nhớ đến các việc gian ác của nó“. Đó là lời kêu gọi của Thiên Chúa: “Hãy ra khỏi nó – hãy ra khỏi Ba-by-lon!”
Nhưng chúng ta, Hội Thánh của Ngài, thì đi đến đâu? Đến núi Xi-on! “Nhưng anh em đã tới núi Xi-on, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giê-ru-sa-lem trên trời…” (Do Thái 12:22). Thật là một đặc quyền mà chúng ta đã đi đến Giê-su-sa-lem trên trời. Nếu chúng ta ở Giê-ru-sa-lem trên trời, thì chúng ta cũng phải hành động cho tương xứng. Chúng ta không thể ở Xi-on mà đồng thời ở thế gian. Có thể một số người cho rằng chúng ta quá chặt. Không! Thậm chí chúng ta phải đóng chặt cửa trái tim mình trước thế gian để giữ gìn trái tim của mình. Điều này không có nghĩa là anh em bị cấm làm điều này, điều nọ. Trái lại, nó có nghĩa là anh em được tự do, không bị cầm giữ và cũng không bị ràng buộc với nhiều vật của thế gian này.
Tôi nhớ lại Chúa, cách đây khoảng 40 năm, ở đây tại Đức, đã chinh phục được một vài người trẻ tuổi, những người sẵn sàng vì Ngài mà từ bỏ mọi thứ. Tôi hy vọng rằng, chúng ta sau 40 năm vẫn còn một trái tim như vậy. Bây giờ, chúng ta cần phải khích lệ thế hệ thứ hai và thứ ba của chúng ta, đừng để bị lôi cuốn vào thế gian này.
III. Đa-ni-en trung tín và các bạn đồng hành của ông
Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đã biết đem những người trai trẻ tốt nhất từ dân Thiên Chúa về cho vương quốc mình, để phục vụ mình (Đa-ni-en 1). Thiên Chúa chúng ta ngày nay có hài lòng với điều ít hơn vậy không? Ngày nay, Ngài cũng cần một dân trẻ cho vương quốc mình. Ngày nay trên thế giới, thanh thiếu niên bị hư hỏng sớm hơn bao giờ hết. Trong thời niên thiếu của tôi, cái ác không hiển lộ như hôm nay. Mới 9 hay 10 tuổi, người ta đã đi vũ trường, xem phim, hoặc tới các buổi tiệc mù mờ đến sau nửa đêm. Hãy học từ Đa-ni-en, làm quyết định đúng đắng trong tuổi trẻ của mình và nói với Chúa: “Lạy Chúa, con muốn dâng mình cho Ngài và hữu ích cho công việc của Ngài trên trái đất này!”. Không ai quá trẻ để hiến dâng mình cho Chúa cả.
Lúc đó, Na-bu-cô-đô-nô-xo đã chỉ thị cho các quan cận thần của mình để đem về cho mình những thanh thiếu niên tốt nhất của dân Giu-đa, những người có dòng dõi cao quý, thông minh, đẹp trai và khỏe mạnh. Nhưng người trẻ này sẽ được học văn hóa, ngôn ngữ và văn học của người Can-đê để hầu việc nhà vua. Ngay cả tên họ cũng bị biến đổi thành tên theo ngôn ngữ của Ba-by-lon, họ phải ăn thức ăn của Ba-bylon và được dạy dỗ trong vòng ba năm.
Đó là một cơ hội tốt đối với nhiều người, không bị bán làm nô lệ. Nhưng trong số nhiều thanh thiếu niên bị các quan cận thần đem qua Baby-lon, chỉ có Đa-ni-en và ba người bạn của mình đã quyết định trong tim là giữ mình trong sạch cho Thiên Chúa. Chỉ bốn người này được Thiên Chúa nhắc đến, vì họ rất quan trọng đối với Ngài. Đó là điều mà ngày nay Chúa cũng muốn – Ngài không cần 40.000 người hay 400.000 mà Ngài cần những người trẻ, là những người có sự hiến dâng tuyệt đối như Đa-ni-en và các bạn ông. Nếu không nhận ra được điều này và sách Đa-ni-en đối với chúng ta chỉ là một câu chuyện đẹp mà thôi, thì chúng ta sẽ không thực sự hữu dụng cho Chúa.
” Phần Đa-ni-en, vì quyết tâm không để mình bị ô uế do thức ăn rượu uống của nhà vua, nên đã xin quan cho mình khỏi bị ô uế” (Đa-ni-en 1:8). Anh em cũng phải làm một quyết định như vậy. Anh em phải rèn luyện ý chí của mình và quyết lòng để giữ mình trong sạch cho Chúa. Hãy cầu xin Chúa ban sức mạnh cho anh em trong quyết định của mình.
” Xin quan cứ thử các tôi tớ của quan đây trong mười ngày: cứ cho chúng tôi ăn rau uống nước!” (câu 12). Ở đây chúng ta thấy chàng trai trẻ này đã thật rõ ràng và tuyệt đối cho Chúa như thế nào. Tôi không tin là Đa-ni-en lớn hơn 15 tuổi. Càng lớn tuổi thì càng khó khăn để thay đổi mùi vị của mình. Nhưng ai đã nếm được Chúa, thì không còn hứng gì nữa với rượu của thế gian này nữa. Theo nghĩa thuộc linh, rượu trong Đa-ni-en chương 1 tượng trưng cho sự hưởng thụ của thế gian, trái lại nước là cho sức khỏe. Uống rượu có nghĩa là hưởng thụ thế gian. Bởi sự hưởng thụ của thế gian, lòng anh em sẽ mau bị hủy hoại, nó chẳng cần phải là điều xấu hay là điều tội lỗi gì cả. Nhiều điều hấp dẫn của thế gian này có thể nhanh chóng nắm bắt tim chúng ta. Anh em không thích gìn giữ lòng mình cho Chúa và có được Ngài nhiều hơn sao? Anh em phải làm quyết định này! Nó không có nghĩa là chúng ta phải sống như những thầy tu, mà chúng ta là những người hoàn toàn bình thường với một cuộc sống bình thường.
Đa-ni-en và bạn đồng hành đã tin và trông cậy Thiên Chúa. Kết quả là gì? Dáng vẻ bên ngoài của họ khỏe mạnh hơn và đẹp hơn những người khác. Vì sự khôn ngoan và thông hiểu thì họ giỏi hơn bậc thông thái trong nước mười lần và họ đã đạt đến những địa vị tốt nhất trong Ba-bylon thời đó. Nếu hôm nay chúng ta học để hiến dâng mình hoàn toàn cho kế hoạch của Thiên Chúa, Chúa cũng có thể làm chúng ta trở nên hữu dụng trong vương quốc Ngài. Tôi hy vọng rằng trong thời gian này Chúa cũng có thể chinh phục được nhiều Đa-ni-en giữa vòng chúng ta!
Herausgeber: Die Gemeinde in Stuttgart, Filderhauptstr. 61B, 70599 Stuttgart; Tel. 0711-457790; E-Mail: Kontakt@Gemeinde-Stuttgart.de; www.Gemeinde-Stuttgart.de Thông điệp 2
Sự giàu có không dò được của Chúa Cứu Thế trong các sách tiên tri
Sách Đa-ni-en
H ộ i n g h ị m ù a x u â n n ă m 2 0 1 0 t ạ i S t u t t g a r t
Tối hôm qua chúng ta đã thấy trong chương một về thời đại của Đa-ni-en và lúc bắt đầu sự tù đày của dân tộc Ít-ra-en. Toàn bộ dân sự khi ấy đã sa ngã và xa rời Thiên Chúa. Nhưng trong những người bị đày đó có bốn thiếu niên đã nguyện với lòng, giữ mình trong sạch cho Thiên Chúa và vì thế Ngài đã có thể dùng họ được. Chúa đã chỉ chúng ta thấy rằng Ngài cũng cần những thanh thiếu niên như vậy trong thời đại cuối cùng ngày nay, một thế hệ mới mà Ngài dấy lên cho kế hoạch của mình. Khi Chúa ở trên đất, Ngài cũng đã gọi những người trẻ tuổi trước hết.
Chắc vài anh em đã đọc thấy trong bài ca của Mô-sê (Đệ Nhị Luật 32), dân sự đã bội nghịch và chống Thiên Chúa như thế nào, đến nỗi họ dâng cả lễ vật cho ma quỷ, điều đã làm nên cơn giận của Thiên Chúa và hình phạt tù đày. Chỉ khi qua hết bảy mươi năm ở Ba-by-lon họ mới được trở về. Nhưng theo thời gian, dân sự lại tiếp tục sa ngã, vì họ không học được gì từ lịch sử của mình. Và khi Chúa Giê-su đến trên đất, Ngài nói về họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mát-thêu 15:8). Bề ngoài họ có vẻ sống theo luật lệ, nhưng bên trong thì trái tim rất xa rời Chúa. Cuối cùng họ đã đóng đinh Chúa, vị Vua của mình.
Ngày nay cũng vậy, có nhiều công việc tôn giáo (tôn giáo liên quan đến Chúa Giê-su) nhưng lòng con người thì thật xa rời Chúa. Nhiều người thậm chí chẳng biết Chúa Giê-su là ai. Và ai trong số những người tin Chúa chuẩn bị một cách nghiêm chỉnh cho sự trở lại của Chúa? Đa số sống trong sự tù đày thuộc linh ngày nay, nghĩa là họ ở trong Ba-by-lon. Sinh ra trong sự giam cầm này hay bị dính vào đó thì dễ, song để ra khỏi nó thì thật khó khăn. Nguyện xin Chúa chinh phục những thanh thiếu niên, những người ra khỏi Ba-by-lon và dâng mình cho ý Chúa. Điều đó cần sự cầu nguyện của chúng ta.
Đa-ni-en và bạn của ông muốn gìn giữ mình và đã từ chối đồ ăn và thức uống của vua. Họ đã nguyện với lòng, ở cùng sự trong sạch theo Lời Thiên Chúa và không để mình bị ô uế bởi những thứ ở Ba-by-lon. Họ biết và làm theo nhiều luật pháp trong sách Lê-vi mà Thiên Chúa đã ban cho dân Ngài, để dân này giữ mình trong sạch. Thiên Chúa thánh khiết nên dân Ngài cũng phải thánh khiết.
Chúng ta không còn luật lệ về thức ăn nữa, tuy nhiên nguyên lý thuộc linh đó vẫn còn giá trị đến ngày nay: Trong lòng chúng ta phải phân biệt, điều gì trong sạch và điều gì ô uế, điều gì đến từ Thiên Chúa và điều gì không. Nó không chỉ liên quan đến những thứ trong thế gian mà còn trong tôn giáo. Sự ô uế và dơ bẩn của thế gian dễ nhận biết hơn là men của tôn giáo. Ngày trước Chúa đã cảnh báo các môn đệ Ngài: “Anh em phải cẩn thận, phải coi chừng men Pha-ri-sêu và Xa-đốc” (Mát-thêu 16:6). Được ám chỉ là những truyền thống khác nhau, sự dạy dỗ, quan điểm, sự chia rẽ và còn nhiều thứ khác, là những điều đem chúng ta khỏi kế hoạch của Thiên Chúa và ngăn cản sự xây dựng.
Cả những điều thế gian đưa mời, chúng ta cũng không được phép thụ hưởng tùy thích. Niềm vui thú đổ đầy lòng chúng ta và chiếm lấy phần không gian thuộc về Chúa. Rồi dần dà tình yêu của Chúa sẽ từ từ không còn trong anh em nữa và thậm chí trở thành thù địch chống lại Ngài. Để điều đó không xảy ra cho chúng ta, Thiên Chúa đã cảnh báo: “Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha” (1.Gioan 2:15), và “ai muốn là bạn của thế gian thì tự coi mình là thù địch của Thiên Chúa” (Giacôbê 4:4). Là kẻ nghịch thù của Thiên Chúa, anh em có thể sẽ còn bắt bớ anh em khác, những người muốn giữ mình trong sạch cho Thiên Chúa và trung tín với Ngài.
Làm bạn với thế gian là sự thù địch chống lại Thiên Chúa. Các anh em là cha mẹ, cầu xin Chúa ban cho sự khôn sáng, để không chỉ cấm đoán con cái anh em điều gì đó mà còn giúp đỡ chúng đọc Lời Chúa và gìn giữ lòng mình. Chúng ta phải cầu nguyện cho con cái mình và cũng phải là một nhân chứng cho chúng.
Chương 2 – Bắt đầu kỳ dân ngoại cho tới lần đến thứ hai của Chúa Cứu Thế, vị Vua
Giấc mơ của Na-bu-cô-đô-nô-xo trong chương 2 có một ý nghĩa rất lớn. Qua ông, Chúa đã chỉ cho chúng ta thấy những thời kỳ dân ngoại, bắt đầu từ Na-bu-cô-đô-nô-xo và kéo dài cho tới lần đến thứ 2 của Vua chúng ta, Chúa Giê-su. Tại sao Chúa gọi là những thời kỳ dân ngoại? Và khi nào kết thúc những thời kỳ này? Để hiểu điều đó, chúng ta cần có toàn bộ bối cảnh của ý định Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn xây dựng Nước Ngài trên trái đất này và đã chọn dân Ít-ra-en cho điều đó. Vì vậy Ít-ra-en không chỉ là một đất nước, một quốc gia, mà trên hết đã được định là vương quốc của Thiên Chúa trên đất này. Và điều gì đã ở trong lòng Chúa Giê-su chúng ta khi Ngài đến trên đất này? Ngài đã dạy môn đồ Ngài cầu nguyện như thế nào? “Vậy, anh em hãy cầu nguyện như thế này:”Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời,xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời!” (Mát-thêu 6:9-10). Vì lẽ đó, Ngài không chỉ đến để giải cứu chúng ta, mà còn để cứu rỗi người cho vương quốc của Ngài.
Từ trước khi sáng tạo thế gian, trước khi Thiên Chúa dựng nên tất cả mọi thứ, Ngài đã quyết định trong lòng là lập vương quốc Ngài trên đất này. Tại sao Thiên Chúa muốn có Nước Ngài trên đất này? Và tại sao Ngài lại không thể tự xây nó lên một cách tùy thích? Ví dụ như, nước Mỹ có thể đơn giản đến Đức và cai trị ở đây được không? Hay ngược lại, nước Đức muốn đến Mỹ và xây dựng nước Đức ở đó? Để được như vậy, đầu tiên nước kia phải bị chinh phục. Như vậy, nếu Chúa muốn xây dựng nước Ngài trên đất này, đầu tiên Ngài cũng cần phải loại bỏ kẻ cai trị trên trái đất: Xa-tan cùng với toàn bộ quân đội hắn của quyền lực và sức mạnh sự dữ. Nhưng theo ý định của Chúa, Ngài không muốn tự làm, mà là qua con người chúng ta. Nguyện xin Chúa mở mắt chúng ta để thấy được kế hoạch của Ngài với chúng ta là lớn lao và vinh hiển như thế nào.
Nguồn gốc của tội lỗi và sự nổi loạn
Làm sao và từ khi nào Xa-tan có quyền lực trên đất này? Và khi nào quả đất đã được dựng nên? Trong Kinh Thánh chép rằng, Thiên Chúa đã dựng nên trời và đất một cách tuyệt vời, đến nỗi các thiên thần đã ngợi ca về điều đó (Gióp 38; Isaia 45:18). Thiên Chúa đã không nói thời điểm khi nào trong Lời Ngài, cũng không nói thời gian đó kéo dài bao lâu, chỉ có nói rằng, sự thống trị thế gian trước thời A-đam đó được trao cho thiên sứ trưởng Lu-xi-phe. Tuy nhiên khi hắn tự nâng mình lên và cầm đầu sự nổi loạn (Isaia 14:12-14; Edêkien 28:12-17), Thiên Chúa đã trừng trị thế gian lúc đó bằng nước lũ. Vì thế quả đất đã trở nên hoang vu và trống không, một “mớ hỗn độn”, như trong Sáng Thế Ký 1:2 chép. Sau lúc đó, trong Sáng Thế Ký 1:2 – chúng ta không rõ thời điểm -, Thánh Thần của Thiên Chúa đến và “vận hành trên mặt nước”. Như thế Đức Chúa đã bắt đầu từng bước một, tái tạo lại quả đất này.
Sự tạo nên loài người cho sự cai trị của Thiên Chúa và sự sa ngã của loài người
Thêm vào sự tái tạo, Thiên Chúa làm một cái gì đó thật mới, theo Kinh Thánh đó chính là loài người (Sáng Thế Ký 1:26). Từ thời điểm này, Thiên Chúa bắt đầu thực hiện chương trình Ngài với loài người chúng ta, thực hiện ý định mà Ngài đã có từ trước khi sáng thế (Ê-phê-sô 1:4). Thiên Chúa muốn chấm dứt sự thống trị của Xa-tan trên thế gian qua loài người và dựng lên Nước Ngài cùng sự trị vì của Ngài với loài người. Ngài đã tạo nên con người với một ý muốn tự do và ban cho quyền tự do lựa chọn (Sáng Thế Ký 2:15-17). Tất nhiên Thiên Chúa đã biết trước điều sẽ diễn ra là: con rắn dụ dỗ loài người, tội lỗi xâm nhập vào loài người, và loài người sẽ cứ sa ngã sâu hơn – trong khoảng thời gian tới Nô-ê, thời đại Ba-ben và đến tận Áp-ra-ham. Nhưng Thiên Chúa đã không từ bỏ ý định Ngài. Từ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, Ngài đã chọn một dân mà Ngài muốn là vua ở đó. Ngài đem dân Ngài ra khỏi Ai Cập và đưa vào vùng đất hứa. Sự giải cứu ra khỏi Ai Cập để làm gì? Tại sao Thiên Chúa đã gắng sức và ban cho họ đất này? Thiên Chúa cần một dân cho vương quốc của Ngài!
Toàn bộ lịch sử của dân tộc Ít-ra-en trong Cựu Ước là một sự chuẩn bị cho sự đến của Đấng Mê-si-a (Chúa Cứu Thế). Vì thế, sách đầu tiên trong Tân Ước là sách Phúc Âm Mát-thêu, một cuốn sách về vương quốc Thiên Chúa. Ngay trong câu đầu tiên, Chúa Giê-su được giới thiệu cho chúng ta không phải là Đấng Cứu Rỗi mà là Con Vua Đa-vít. Và khi Ngài bắt đầu rao giảng, Ngài nói ngay về vương quốc Thiên Chúa: “Anh em hãy sám hối, vì Vương Quốc Của Các Tần Trời đã đến gần” (Mátthêu 4:17). Chúng ta thì chắc hẳn đã rao giảng rằng: “Các ngươi hãy ăn năn, vì sự cứu rỗi đến!”. Trong trái tim chúng ta khắc sâu sự Cứu Chuộc, Cứu Rỗi đến nỗi chẳng còn chỗ cho Nước Thiên Chúa trong đó. Chúng ta tuy đã nghe về điều này, nhưng nó không ở trong lòng mình. Ngày nay chúng ta có còn rao giảng như Chúa thời đó và như Gioan Tẩy Giả không (Mát-thêu 3:2)? Cả những môn đệ cũng đã rao giảng Phúc Âm không chỉ là sự ăn năn, mà còn là Phúc Âm về Nước Thiên Chúa nữa (Tông Đồ Công Vụ 2:38; 8:12). Mục tiêu là Nước Thiên Chúa.
Dân Ít-ra-en chối bỏ Thiên Chúa làm Vua họ
Thiên Chúa ngày trước đã đem dân Ngài vào vùng đất hứa và sau đó chọn Giê-ru-sa-lem để có Ngôi Ngài ở Xi-on nơi đó và thực thi sự trị vì của Ngài. Tuy nhiên Ít-ra-en đã không nhận ra và từ bỏ vị Vua của họ (1.Sa-mu-ên 8:7; 10:19). Họ muốn một người làm vua giống như các dân ngoại (1.Sa-mu-ên 8:20). Tôi nhấn mạnh: như những dân ngoại! Chúng ta có muốn như các dân ngoại không? Thiên Chúa muốn một dân Thánh, một dân thuộc quyền sở hữu của Ngài. Thiên Chúa muốn sống trong dân Ngài, xây dựng Nước Ngài với dân đó và cai trị trên các dân ngoại. Nhưng Ít-ra-en đã không muốn điều đó.
Ngay từ thời của tiên tri Sa-mu-ên, họ đã từ chối Thiên Chúa làm Vua của họ. Ai có thể là một vị Vua cho Ít-ra-en tốt hơn Thiên Chúa của họ? Trong đời sống của anh em thì thế nào? Ai là vua trong đời sống anh em? Ai làm chủ trong trái tim anh em? Ai quyết định, ai có tiếng nói? Chúa hay là anh em? Chẳng phải là chúng ta phần lớn có quyết định của mình và thực hiện những gì mình muốn sao? Anh em nghĩ rằng, chúng ta tốt hơn người Do Thái khi xưa sao?
Họ đã đi trên những con đường của dân ngoại , nghĩa là, họ muốn được giống như những dân ngoại. Mặc dù Thiên Chúa đã cảnh báo trước dân Ngài, đừng sống như những dân ngoại, đừng tiếp nhận những tập tục của dân ngoại, đừng theo đuổi những thần của dân ngoại và đừng thờ lạy giống như dân ngoại đã thờ lạy. Cả đồ ăn của dân ngoại họ cũng không nên ăn và thật không trộn lẫn mình với dân ngoại.
Thiên Chúa muốn có một dân Thánh . Cái chữ “Thánh” này phải ở trong tim chúng ta. Đa-ni-en và các bạn đồng hành của ông đã có điều răn này của Thiên Chúa ở trong lòng. Họ đã tin vào Thiên Chúa hằng sống và chắc chắn cũng đã kinh nghiệm Ngài. Thiên Chúa thật thành tín. Ai yêu Ngài, Ngài sẽ hiện ra với người đó. Thiên Chúa chúng ta là một Thiên Chúa hằng sống, một Thiên Chúa hiện đến, một Thiên Chúa biết nói. Thiên Chúa không chỉ có ban luật pháp và điều lệ, không, chúng ta thường đọc trong Kinh Thánh thấy Ngài hay hiện ra như thế nào với những người hỏi về đường lối Ngài hay những người kêu gào tới Ngài trong lúc hoạn nạn. Thiên Chúa đã nói với ngay cả Ha-ga, người hầu gái của vợ Áp-ra-ham, chứ không chỉ mình Áp-ra-ham.
Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trên dân bội nghịch và tội lỗi của Ngài dẫn tới sự tù đày – Các thời kỳ của dân ngoại bắt đầu
Dân Ngài đã đi quá xa: họ thờ thần tượng, làm đổ máu vô tội, họ sỉ nhục và chế nhạo những nhà tiên tri và khinh dễ Lời Thiên Chúa. Vì thế, trong cơn thịnh nộ Ngài, Thiên Chúa đã để họ bị dẫn vào sự tù đày vào năm 606 TCN. Với dân này, Thiên Chúa không thể xây dựng vương quốc của Ngài được. Chắc chắn Thiên Chúa đã biết rằng con người hoàn toàn không có khả năng gìn giữ luật pháp Ngài, nhưng Ngài đã cần thời kỳ Cựu Ước để chuẩn bị cho Giao Ước thứ hai, Tân Ước. Về Giao Ước này, Thiên Chúa đã nói tiên tri qua Giê-rê-mi : “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta” (Giê-rê-mi 31:33).
Như vậy, những thời kỳ dân ngoại đã bắt đầu từ 606 TCN, vì Thiên Chúa đã xóa bỏ vương quốc thuộc đất của Ngài và giao lại quyền cai trị cho dân ngoại. Khi Chúa lập nên vương quốc đời đời của Ngài (Đa-ni-en 2:44), thì quyền cai trị đó sẽ kết thúc. Tất cả những gì Chúa đã phán qua Đa-ni-en về thời Cựu Ước đã xảy ra. Và tất cà những gì Gioan cho chúng ta biết trong Khải Huyền về thời Tân Ước, cũng sẽ ứng nghiệm như thế. Chúa phải mở mắt chúng ta ra để thấy rằng mọi điều ở đây đều liên quan đến vương quốc Ngài.
Vương Quốc Của Các Tầng Trời – sự cai trị của sự sống bên trong chúng ta
Ngay từ lúc đầu công việc mình, Chúa Giê-su đã rao giảng: ” Các ngươi hãy sám hối, vì Vương Quốc Của Các Tầng Trời đã đến gần!” (Mátthêu 4:17). Và khi Ngài được những người Pha-ri-sêu hỏi là: khi nào Nước Thiên Chúa sẽ đến, thì Ngài đáp: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được” (Lu-ca 17:20). Trong Tân Ước ngày nay là một cách cai trị khác với trong Cựu Ước. Vương quốc mà đã đến cùng với Chúa, có bản chất thuộc trời. Vì thế, Thiên Chúa cần một dân thuộc trời, dân cai trị trong Vương Quốc Của Các Tầng Trời với Ngài. Ngày nay, nước này là một sự cai trị bên trong bởi sự sống của Chúa trong chúng ta. Vị Vua muốn ngự trong anh em và cai trị trong anh em. Ngài muốn là sự sống của anh em. Nước Trời lớn lên trong chúng ta như thế.
Người Do Thái ngày trước đã mong chờ với Đấng Mê-si-a không phải là một Đấng Cứu Rỗi, mà là một vị vua vĩ đại. Tuy nhiên, vị Vua này đã hoàn toàn khác với suy nghĩ của họ: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò!Vì kìaĐức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng,khiêm tốn ngồi trên lưng lừa,một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Ðacaria 9:9). Ngài phải đem sự cứu chuộc đến cho con người trước đã. Bởi vậy, Ngài đã tự hạ mình và đến một cách khiêm nhường. Tuy vậy, Ngài là Vua, vị Vua – Cứu Rỗi. Ở lần đến đầu tiên của Ngài, quan trọng với Chúa hoàn toàn không phải là sự cai trị bên ngoài, mà Chúa muốn cứu chuộc dân thuộc đất của Ngài, và làm họ trở thành một vương quốc thuộc trời. Nhưng họ đã không hiểu Ngài và đã hoàn toàn chối bỏ Chúa, Vua của họ; các thầy tế lễ và các thầy thông giáo đã muốn tự mình cai trị. Chúng ta thấy đó, khi Chúa đến lần thứ nhất, người Do Thái lần thứ hai đã chối bỏ Thiên Chúa làm Vua họ.
Sự đến của Vương Của Quốc Các Tầng Trời qua việc xây dựng Hội Thánh
Trong sự chiêm bao của Na-bu-cô-đô-nô-xo, Đa-ni-en đã thấy tất cả các đế chế của thế gian cho tới Chúa đến lần thứ nhất và cho tới sự thiết lập Nước Trời của Ngài. Nước Trời này ngày này còn được ẩn bên trong nhưng đã được xây dựng rất thực tiễn trong Hội Thánh. Vì thế Chúa đã nói ngay với Phê-rô: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Vương Quốc Của Các Tầng Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mát-thêu 16:18-19). Hội Thánh không chỉ là một buổi lễ ngày chủ nhật, một buổi nhóm để nghe giảng, mà Hội Thánh còn là Vương Quốc Các Tầng Trời ngày nay, được định để mang Nước Thiên Chúa và sự cai trị đến trên đất này.
Cuộc chiến của chúng ta chống lại những quyền lực và sức mạnh vô hình (Ê-phê-sô 2:2), không phải chống lại con người: “…Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao” (Ê-phê-sô 6:12). Chỉ Hội Thánh mà Chúa xây mới có thể chiến thắng cuộc chiến thuộc linh này. Khi chúng ta rao giảng Phúc Âm về vương quốc Thiên Chúa cho mọi người, chúng ta phải rõ, đó là một cuộc chiến chống lại các quyền lực trên trời và các thế lực của bóng tối.
Việc xây dựng Hội Thánh là trọng tâm kế hoạch của Thiên Chúa, vì nó liên quan đến vương quốc Thiên Chúa, về sự cai trị. Không phải ngẫu nhiên khi Chúa chỉ nói trong Phúc âm Mát-thêu: “Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Vương Quốc Của Các Tầng Trời“. Điều đó có nghĩa là, Hội Thánh sẽ thực thi toàn quyền của Chúa trên đất này, trong việc họ buộc và mở. Ở đây không nói về một quyền lực bề ngoài, một sự cai trị bề ngoài, mà là về một điều bên trong. Đầu tiên, vị Vua phải cai trị trên chúng ta. Rồi sau đó, khi tất cả đã được chuẩn bị và chín muồi cho sự cai trị bên ngoài, vị Vua sẽ đến lần thứ hai. Khi đó chúng ta sẽ cai trị với Ngài trong Vương Quốc Một Ngàn Năm trên tất cả các quốc gia.
Để sử dụng chìa khóa của Vương Quốc Của Các Tầng Trời, chúng ta phải lớn lên trong sự sống. Các Ky-tô hữu, ví dụ trong Côrinh-tô, đã vẫn là những con nhỏ trong Chúa Cứu Thế (1 Cô-rinh-tô 3:1). Họ đã không có thẩm quyền sử dụng chìa khóa này. Chúng ta có thẩm quyền chăng? Chúng ta có sử dụng chìa khóa đó chăng? Tại sao nhiều điều vẫn chưa được mở cũng như chưa được buộc trong cuộc sống Hội Thánh chúng ta. Bởi vì chúng ta như con nhỏ, chúng chỉ biết chơi với chiếc chìa khóa thôi. Chúng ta thật chưa đủ trưởng thành, để sử dụng đúng chìa khóa của Vương Quốc Của Các Tầng Trời.
Anh em hưởng thụ Chúa Cứu Thế trong Hội Thánh để làm gì, khi không có sự tăng trưởng xảy ra ở đó. Chỉ có những thánh đồ “xác thịt” trong Hội Thánh thì sẽ cản trở sự cai trị của Chúa. Chúa phải cai trị trong chúng ta, trong đời sống hàng ngày chúng ta, ở nơi làm việc, trong cuộc sống Hội Thánh, trong đời sống gia đình. Khi anh em hoàn toàn một mình, Chúa có cai trị lúc đó chăng? Chúa có cai trị trong suy nghĩ anh em? Chúa muốn cai trị, và Hội Thánh là sự biểu hiện của vương quốc thiên thượng.Trước điều đó Xa-tan rất sợ hãi. Khi trong Hội Thánh, chúng ta vẫn cứ quyết định theo suy xét riêng của mình và mỗi người làm theo điều mình muốn thì sự cai trị của Chúa ở đâu? Khi trong Hội Thánh, chúng ta không để cho Chúa cai trị, thì chúng ta còn phải đợi lâu nữa đến khi vị Vua trở lại.
Trong thư Do Thái nói rằng, chúng ta trong Hội Thánh đã đến núi Xion chân thật, đến Giê-ru-sa-lem thiên thượng: “anh em đã tới núi Xi-on, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giê-ru-sa-lem trên trời,…” (Do Thái 12:22). Ngày nay không còn nói đến Giê-ru-sa-lem thuộc đất nữa, mà là thuộc trời. Một số tín hữu tưởng rằng, họ phải trở về nước Ít-ra-en, vì Xi-on ở đó. Chúng ta thì có thể tiết kiệm cho mình chuyến đi đó, vì Xi-on chân thật là ở đây trong Hội Thánh.
II. Sự chiêm bao của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo (Đa-nien 2:31-45) – Các thời kỳ của dân ngoại (Lu-ca 21:24b)
Chúng ta hãy quan sát pho tượng trong sự chiêm bao của Na-bu-cô-đônô-xo. Đế chế Ba-by-lon đã kéo dài thêm khoảng 70 năm, tính từ lúc Đani-en bắt đầu tù đày. Trong đó, Na-bu-cô-đô-nô-xo đã cai trị khoảng 43 năm. Kẻ cai trị cuối cùng trong những hậu duệ của ông là Bên-xát-sa. Na-bu-cô-đô-nô-xo đã là nhà cai trị lỗi lạc duy nhất. Sau ông không còn ai có nhiều thế lực và uy quyền như vậy. Ông đã là “vua các vua, Đức Chúa Trời đã ban cho ngài vương quốc, quyền hành, thế lực và vinh quang. Con cái loài người, thú vật ngoài đồng, chim chóc trên trời, dù chúng ở đâu thì Đức Chúa Trời cũng giao vào tay ngài và đặt ngài làm chủ tể mọi loài. Cái đầu bằng vàng chính là ngài vậychủ tể mọi loài. Cái đầu bằng vàng chính là ngài vậy 38). Cái uy quyền mà lẽ ra nhà Đa-vít nên có, đã được Chúa giao cho Na-bu-cô-đô-nô-xo, ông là cái đầu bằng vàng. Không có ai trước và sau ông có nhiều thế lực hơn vậy. Tất cả đến sau ông, là thuộc vào phần dưới cái đầu đó – nghĩa là thấp hơn và ít thế lực hơn.
Nối tiếp đế chế của ông là đế chế Mê-đi (Medes) và Ba Tư (Persian) cái vai và cả hai cánh tay của pho tượng (bằng bạc), trong đó đế chế Ba Tư (cánh tay phải) mạnh hơn và đoạt lấy cả hai đế chế sau đó. Trong pho tượng, chất lượng của vật liệu giảm dần từ trên xuống dưới – những đế chế nối tiếp sau đã luôn yếu hơn. Cái bụng và hông của pho tượng tượng trưng đế chế Hy Lạp – nó chỉ còn bằng đồng. Sau đó đến đôi chân là đế quốc Tây La Mã và Đông La Mã bằng sắt, đế chế này đã không được nói đến trong Kinh Thánh – một thời gian dài của sự trộn lẫn với thế gian và tôn giáo trong những Giáo Hội Công Giáo La Mã và Chính Thống Giáo. Quá khứ không quan trọng đối với chúng ta, mọi người đều có thể đọc lại nó. Nhưng điều chúng ta phải biết là khi nào “phần bàn chân” này bắt đầu. Đế chế La Mã bằng sắt không còn quý nữa, nhưng rất cứng. Ở đây, chúng ta thấy cuối cùng của pho tượng là bàn chân và các ngón chân. Nơi này không chỉ có sắt mà là đất sét trộn lẫn với sắt. Đất sét trong Kinh Thánh tượng trưng cho dân chúng hay là các dân tộc. Toàn pho tượng cho chúng ta thấy, hình thức cai trị đã thay đổi như thế nào và nó đã luôn yếu hơn: từ chế độ chuyên quyền, chế độ quân chủ qua chế độ quý tộc và cho đến chế độ dân chủ ngày nay.
Ý nghĩa của sự phát triển này được mô tả trong một tạp chí như sau: “Cuộc cách mạng Pháp, bắt đầu bằng sự nổi dậy trên pháo đài Bastille vào ngày 14 tháng 7 năm 1789, tượng trưng cho một bước ngoặt quyết định của đại lục Châu Âu. Với tuyên bố chủ quyền của tầng lớp trung lưu và tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền vào ngày 26 tháng 8 năm 1789, điều mà sau đó được nhắc lại trong hiến pháp của Pháp, thì sự cai trị chuyên chế của chế độ cũ đã sụp đổ và việc giải phóng khỏi trật tự xã hội phong kiến đã thành công. Pháp quyền bình đẳng cho cá nhân và dân sự đã đặt nền tảng cho một hình thức chính thể tự do và dân chủ trên đại lục Châu Âu” (nguồn: Informationen zur politischen Bildung, Nr. 284, Demokratie).
Với cuộc cách mạng Pháp năm 1789, xã hội đã có một sự thay đổi căn bản. Dân chúng bây giờ đã có quyền tham gia quyết định. Nhưng không chỉ trên đại lục Châu Âu, mà ở Mỹ cũng có một cuộc cách mạng và tuyên bố độc lập năm 1776.
Từ thời điểm cách mạng Pháp (1789) đến ngày nay đã trải qua 221 năm. Còn kéo dài bao nhiêu lâu nữa cho đến lúc kết thúc thời đại này, khi đôi chân tượng trưng cho 1800 năm đã ở sau lưng chúng ta. Chúng ta biết rằng, mười ngón chân này là mười vị vua sẽ giao quyền lực của mình cho con thú trong ba năm rưỡi cuối cùng, và sau đó là tận thế (Khải Huyền 17:12-13). Thời đại này đã trải qua được tương đối nhiều, tôi nghĩ rằng, chúng ta đang ở rất gần mười ngón chân. Khi quan sát những mối tương quan giữa các bộ phận cơ thể với nhau, chúng ta phải thừa nhận rằng, thời gian còn lại rất ngắn.
Dấu hiệu lớn đầu tiên cho sự trở lại của Chúa là việc thiết lập nước Ítra-en vào năm 1948. Cả hai cuộc chiến tranh thế giới đã thay đổi thế giới mạnh mẽ và đặc biệt thúc đẩy sự phát triển của dân chủ và cả nhân quyền. Thêm đó chúng ta thấy sự sụp đổ của bức tường Berlin năm 1989 và sự tan rã của khối Xô Viết năm 1991, cũng như sự phát triển không ngừng tiến lên một hình thức chính thể dân chủ hơn và ảnh hưởng của dân trong những quốc gia luôn tăng cao hơn.
Hòn đá đục ra từ núi, không phải bởi tay người – Chúa Cứu Thế và vương quốc đời đời của Ngài do Thiên Chúa đã dựng nên
Tại sao Chúa lại chờ lâu như vậy, cho đến khi Ngài đánh tan những vương quốc thời đại này với một hòn đá (Đa-ni-en 2:44-45) và lập vương quốc Ngài lộ ra ngoài thấy được trên cả đất? Bởi vì Thiên Chúa cần Hội Thánh. Trước cuộc cách mạng Pháp, lỗi do sự thất bại của vua, vua định đoạt, vua có trách nhiệm. Ngày nay, trong thời kỳ dân chủ, tất cả đều có lỗi chung, vì chính quyền làm theo điều dân muốn. Chưa bao giờ trước đây, con người có nhiều tự do đến vậy để làm và để bỏ điều mà họ muốn. Có rất ít giới hạn, giống như thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra vậy.
Chúng ta hãy cùng đọc các câu trong Đa-ni-en 2: ” Tâu bệ hạ, ngài đã có một giấc chiêm bao. Giấc chiêm bao ấy như thế này: một pho tượng, một pho tượng lớn, sáng chói, đứng sừng sững trước mặt ngài, coi thật dễ sợ. Đầu pho tượng ấy bằng vàng ròng, ngực và hai cánh tay bằng bạc,bụng và hai bắp đùi bằng đồng, hai bắp chân bằng sắt, hai bàn chân nửa sắt nửa sành. Ngài đang mải nhìn thì bỗng có một tảng đá tách ra, dù không có bàn tay nào đụng tới, nó đập vào pho tượng trúng hai chân nửa sắt nửa sành, khiến hai bàn chân vỡ tan ra. Bấy giờ tất cả cùng vỡ tan: cả sắt, sành, đồng, bạc lẫn vàng, giống như rơm rác trên sân phơi lúa mùa hè bị gió cuốn đi không để lại dấu vết gì. Còn tảng đá làm vỡ pho tượng thì trở thành một hòn núi lớn choán hết mặt đất. Đó là giấc chiêm bao, còn ý nghĩa của nó thì xin tâu trước bệ hạ. Tâu bệ hạ, ngài là vua các vua, Đức Chúa Trời đã ban cho ngài vương quốc, quyền hành, thế lực và vinh quang. Con cái loài người, thú vật ngoài đồng, chim chóc trên trời, dù chúng ở đâu thì Đức Chúa Trời cũng giao vào tay ngài và đặt ngài làm chủ tể mọi loài. Cái đầu bằng vàng chính là ngài vậy. Sau triều đại ngài, sẽ xuất hiện một vương quốc khác kém hơn ngài. Rồi một vương quốc thứ ba nữa, vương quốc bằng đồng, sẽ thống trị cả mặt đất. Còn vương quốc thứ tư vững như sắt. Cũng như sắt nghiền nát và đập tan tất cả vương quốc đó – khác nào sắt phá vỡ – cũng sẽ nghiền nát và phá vỡ tất cả. Bàn chân và các ngón chân mà ngài thấy nửa bằng đất sét, nửa bằng sắt là một vương quốc sẽ bị phân chi! a, nhưng sẽ có một phần sức mạnh của sắt, vì ngài thấy sắt pha lẫn với đất sét. Các ngón chân phần bằng sắt, phần bằng đất sét là một vương quốc nửa mạnh nửa yếu. Việc ngài thấy sắt pha với đất sét nghĩa là các vương quốc sẽ làm cho các chủng tộc pha lẫn với nhau, nhưng không gắn bó với nhau được, cũng như sắt không hoà lẫn được với đất sét. Trong thời đại các vua này, Đức Chúa Trời sẽ lập một vương quốc không bao giờ bị tiêu diệt, vương quốc ấy không bị giao cho một dân khác, nhưng nó sẽ đập tan và tiêu diệt tất cả mọi vương quốc này, đến muôn đời nó sẽ đứng vững ” (câu 31-44). Chúa dựng lên vương quốc Ngài với ai? Với chúng ta, Hội Thánh. Thật vậy, nếu Hội Thánh ngày nay là vương quốc Ngài trên đất này chưa chín muồi, thì Chúa vẫn chưa đến được. Nếu chúng ta ngày nay chưa sẵn sàng, bỏ lại sau lưng tất cả những gì thuộc tôn giáo, thuộc thế gian cho Chúa – vị Vua chúng ta, thì Ngài phải tiếp tục chờ để có thể trở lại.
” Nhưng có Đức Chúa Trời là Đấng mặc khải những điều bí nhiệm, chính Người cho đức vua Na-bu-cô-đô-nô-xo biết điều gì sẽ xảy ra sau này” (câu 28). Không ai ngoài Thiên Chúa có thể vẽ một bức tranh chỉ trong một chương duy nhất, nói trước cả lịch sử của 2600 năm cho tới tận lần đến thứ hai của Chúa (Đa-ni-en 2:29). Khi chúng ta thấy điều đó và vẫn không muốn xây dựng Hội Thánh, một ngày nào đó chúng ta buộc phải gánh lấy trách nhiệm về điều này. Hội Thánh là Vương Quốc Của Các Tầng Trời, Hội Thánh chẳng liên quan gì tới toàn bộ sự phát triển sai lầm trong 2000 năm qua – chẳng liên quan tới Giáo Hội Công Giáo La Mã lẫn Chính Thống Giáo Hy Lạp. Toàn bộ lịch sử Châu Âu đã hoàn toàn hỗn loạn với tôn giáo. Hãy nghĩ nghĩ về khái niệm “Đế quốc La Mã thần thánh của quốc gia Đức” (tên nước Đức trước năm 1806, mấy nước ở Châu Âu cũng từng có tên tương tự)! Chúng ta phải đi ra khỏi tất cả những điều này và chuẩn bị cho sự đến của Vương Quốc Các Tầng Trời. Chúng ta không thuộc nước của thế gian này, mà chúng ta là công dân trên Trời (Phi-líp 3:20). Và “không còn chuyện phân biệt Dothái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (Ga-la-ti 3:28). Chúng ta tất cả đều thuộc về Nước Trời, và ngày nay chúng ta xây dựng Vương Quốc Của Các Tầng Trời trong Hội Thánh
Khi việc xây dựng này hoàn tất, thì Chúa chúng ta sẽ đến. Chúng ta có sẵn sàng không? Chúng ta có muốn dâng hiến mình cho điều đó không? Sẽ là không khôn ngoan nếu chọn một điều khác.
Ngày nay tất cả mọi thứ đều đồi bại, đến nỗi người ta có thể thấy lại toàn bộ tội lỗi và sự bừa bãi phóng túng của Xơ-đôm và Gô-mô-ra. Thật không tốt nếu có quá nhiều tự do phóng túng như vậy, bởi vì chúng ta sẽ đánh mất mọi chuẩn mực. Chúng ta cũng không được cho phép con cái hoàn toàn tự do. Tất cả chúng ta đều cần giới hạn lại. Nguyện xin Chúa giúp chúng ta xây dựng vương quốc Ngài: “Lạy Chúa, Ngài phải cai trị trong chúng con! Chúng con muốn học cách vâng lời và để Chúa cai trị chúng con! Ngợi khen Chúa!”
Herausgeber: Die Gemeinde in Stuttgart, Filderhauptstr. 61B, 70599 Stuttgart; Tel. 0711-457790; E-Mail: Kontakt@Gemeinde-Stuttgart.de; www.Gemeinde-Stuttgart.de
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét