Thứ Ba, 20 tháng 8, 2013

DA S B5A8C3F7.html

DA S B5A8C3F7.html

DÃ SỬ (*)

Tác giả: Nguyễn Đức Cung

Nguồn: www.khoahoc.net

Thực hiện ebook: Goldfish

Mục lục:

Bài 1: TỪ CHÍNH SỬ ĐẾN DÃ SỬ…

Bài 2: DÃ SỬ – MỘT CÁI NHÌN QUY CHIẾU VÀO TƯ LIỆU TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM

Bài 1: TỪ CHÍNH SỬ ĐẾN DÃ SỬ…

(05 tháng 04 năm 2007)

Cicero (106-43 trước Công-Nguyên), một nhà hùng biện kiêm chính trị gia lừng danh thời cổ La mã đã có nói: "Lịch sử là thầy dạy của cuộc đời" (Historia, magistra vitae). Câu nói này vốn để lại nhiều suy gẫm về ý nghĩa cho biết bao thế hệ từ đó cho đến ngày hôm nay. Bài học lịch sử là bài học kinh nghiệm đúc kết qua thời gian, kinh qua bản thân mình hay tha nhân, bạn cũng như thù, người xưa cũng như người nay. Bài học đó được viết đi viết lại dưới nhiều hình thức của văn chương, qua nhiều nhãn quan và cảm hứng tùy theo trình độ của người viết, môi trường họ được nuôi dưỡng và huấn luyện, dạy dỗ và lớn lên, trưởng thành để thâu thái kinh nghiệm. Bài học lịch sử không vì ảnh hưởng của giới tính, tuổi tác, chủng tộc hay tôn giáo của tác giả mà mất đi giá trị nội tại của nó nhưng trái lại nó đã hiện diện như một thực thể không cần chứng minh cũng tựa như bầu khí ta đang thở không thấy mà vẫn có, và vẫn trường tồn bất diệt mà mọi người đều có thể tự do sử dụng, tha hồ học hỏi, giống như lời thi hào Tô Đông Pha nói trong bài phú Tiền Xích Bích của văn học cổ Trung Hoa: "thủ chi vô cấm, dụng chi bất kiệt" (lấy mà không cấm, dùng mà không hết). [1]

Đối với dân tộc Việt nam, các biến cố lịch sử đã được ghi nhận qua từng triều đại dưới các ngòi bút thuộc nhiều quan điểm khác nhau hay thuộc nhiều trường phái khác biệt đôi khi chống phá lẫn nhau [2] cho nên việc tìm hiểu giá trị của các khuynh hướng sử học xuyên qua cung cách, bút pháp, quan điểm ghi lại các biến cố thời đại luôn luôn vẫn là điều cần thiết. Sử học là một khoa học nhân văn so trong chương trình giáo dục của Việt Nam trước đây vẫn còn khá mới mẻ, bởi vì cách đây hơn một nửa thế kỷ, chúng ta vẫn còn phải học câu "Nos ancêtres sont des Gaulois" (tổ tiên của chúng ta thuộc giống Gôloa) [3]. Có nhiều khuynh hướng viết lịch sử, theo nhiều thể loại, với các dụng tâm khác nhau cho nên việc góp ý về một vài vấn đề lịch sử vốn đã từng bị hiểu lệch lạc, sai lầm xét ra cũng có tác dụng làm phong phú thêm kho tàng tư liệu sử học. Ngày nay, việc viết lại lịch sử, hay đóng góp một số nhận định, phân tích về các đề tài lịch sử  luôn luôn là vấn đề cần thiết nhất là góp ý vạch trần chính sách lợi dụng bộ môn sử học để tuyên truyền ru ngủ quần chúng đặc biệt những giới bình dân ít học, hoặc lợi dụng lịch sử để xây dựng những biểu tượng dối trá, đánh bóng lãnh tụ, tôn sùng thần thánh hóa cá nhân [4] …. (**) Tuy nhiên, do ý thức bén nhậy và nỗ lực tìm hiểu sự thật của các tầng lớp trí thức trẻ tuổi, chắc chắn họ sẽ tiếp cận được với chân lý của lịch sử bao lâu họ có quyết tâm tìm về các nguồn sử học chân chính, tìm hiểu thực chất của các khuynh hư�! �ng biên soạn lịch sử nước nhà, phân tích được giá trị của các nguồn tư liệu, sử phẩm có trong thư viện hay được dùng trong chương trình giáo dục của nhà trường với tinh thần vô tư, khoa học.

Dưới nhiều hình thức của các bộ môn văn chương, lịch sử Việt nam đã được ghi lại rất sớm, có người cho rằng từ thời nhà Ngô, Đinh rồi Tiền Lê đã có những hoạt động ghi lại các biến cố lịch sử [5] tuy nhiên dư luận chung vẫn cho rằng Lê Văn Hưu (1230- 1322) với bộ Đại Việt Sử Ký là người khởi đầu cho một quá trình biên soạn lịch sử của một đất nước đã có kỷ cương nền nếp. Có nhiều khuynh hướng biên soạn lịch sử được tạm thời tổng quát hóa theo các quan điểm sau đây: chính sử, dã sử, sử học do người ngoại quốc viết, sử quan duy vật mác xít, sử học quốc gia.

Từ quan điểm lịch sử cung đình…

Gọi tên "lịch sử cung đình" là lối gọi có tính cách thời thượng, hiện đại thật ra đó là một lối viết được gán cho khuynh hướng ghi chép các biến cố lịch sử của "chính sử" hay "sử học chính thống" nếu nói theo danh từ của môn Phương pháp sử học nhằm phân biệt với "dã sử". Chính sử là sử sách do cơ quan chính thức của triều đình quân chủ biên soạn thường gọi là Quốc sử quán do các viên chức khoa bảng của triều đình được chỉ dịnh đứng ra sưu tập tài liệu và biên soạn lịch sử các triều đại hay các biến cố của quốc gia. Dã sử ( là đồng nội, chốn dân gian – theo Đào Duy Anh) là sử sách do dân chúng ngoài xã hội viết về các biến cố quân sự, chính trị, văn hóa, kinh tế v.v… Sử gia Nguyễn Phương đã gọi một cách tổng quát hai nguồn sử liệu chính sửdã sử là sử liệu công và sử liệu [6].

Sử học truyền thống Việt Nam vốn chịu nhiều ảnh hưởng của nền sử học truyền thống Trung Hoa cho nên các sử gia chính thống nước ta trước đây đã sử dụng các lối chép sử của Bắc phương trong khi biên soạn tác phẩm của mình đó là lối kỷ truyện, biên niêncương mục.

Trước hết, lối kỷ truyện bắt chước theo phương pháp của sử gia Tư Mã Thiên (145-86 ? tr. C.N.) khi ông này viết bộ Sử Ký tức là lối viết lịch sử dưới hình thức tiểu sử các nhân vật "lấy nhân vật làm trung tâm, đã kể lại có hệ thống lịch sử hoạt động các loại nhân vật trong ba nghìn năm của Trung quốc cổ đại, phơi bày hình tượng lịch sử rực rỡ đẹp mắt trong một quyển sách dài, các bài truyện ký đều có tình tiết câu chuyện rất sinh động, miêu tả các cảnh hoạt động và chi tiết một cách sống động như thật, khẩu ngữ hóa ngôn ngữ một cách linh động hoạt bát…" [7]  Một lối viết có tên liệt truyện cũng được các nhà biên soạn sử học Việt Nam dưới các triều đại quân chủ trước đây sử dụng với các bộ sử có tên như Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên, Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện v.v… mà hình thức cũng không khác lối kỷ truyện bao nhiêu.

Thứ đến là lối biên niên đã được Khổng Tử sáng tạo đầu tiên để cắt bỏ và sửa chữa sử nước Lỗ mà biên soạn thành sách Xuân Thu, một tác phẩm có lẽ ngài đã gửi gắm sở nguyện rất nhiều trong đó khi nói rằng "biết ta cũng là nhờ sách Xuân Thu, buộc tội ta cũng là vì sách Xuân Thu" (tri ngã dã kỳ duy Xuân Thu hồ, tội ngã dã kỳ duy Xuân Thu hồ!). Sách này chứa đựng cả một triết lý về chính trị: vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con, mọi người đều phải cư xử theo đúng danh phận của mình. Đây là lối viết của tất cả các bộ chính sử, kể lại sự kiện theo thứ tự thời gian, thí dụ muốn chép một sự việc nào, trước hết người ta ghi niên hiệu của hoàng đế, rồi đến  tháng, mùa, có khi ngày, và nếu có hiện tượng thiên văn gì cũng ghi nhận luôn. Lối viết này cũng gây trở ngại cho người đọc là khó nắm bắt được các sự kiện vốn phải liên lạc mật thiết với nhau nhưng lại bị dàn trải rải rác trong thời gian.

Nhận định về sử biên niên, giáo sư Nguyễn Phương cho rằng "Trong loại nầy, sử gia lấy thời gian làm bố cuộc, thuật hết chuyện ngày nầy mới qua chuyện ngày khác, hết tháng nầy rồi mới qua tháng khác, v.v… Lấy thời gian làm đơn vị căn bản như thế, một chuyện xảy ra bên tây có thể nằm bên cạnh một chuyện xảy ra bên đông, nếu cả hai xảy ra trong cùng một ngày. Vì thế đặc điểm của loại sử biên niên là thiếu tính cách tổng hợp. Ngoài ra, những sử gia chép loại sử biên niên, như các tác giả của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục thường ít có óc khảo chứng nên sự kiện có nhiều chỗ phi phỏng." [8]

Sau hết, lối cương mục tức là thể loại phỏng theo phương pháp của bộ Cương mục của Chu Hy (1130-1200), nhà tư tưởng và nhà giáo dục trứ danh thời Nam Tống. Trình bày ý nghĩa và phân tích sự lợi hại của lối chép sử này, giáo sư Nguyễn Thế Anh đã viết: "Các việc đều chép theo thứ tự thời gian đã đành (phép chép biên niên), nhưng ngoài ra còn tóm đại ý việc định chép trong một đoạn hoặc một câu ngắn để nêu lên như một tiểu đề, rồi ở dưới mới chép tự sự rõ ràng các công việc đã xảy ra (cương là giềng, tức là dây cái của lưới; mục là mắt lưới). Nhưng vì chú ý nêu việc lớn làm cương để ghi việc nhỏ làm mục ở sau, đã phải bỏ đi rất nhiều việc khó gắn vào làm mục cho cương đã nêu ra." [9] Tuy nhiên theo nhận định của giới nghiên cứu sử học gần đây lối cương mục cũng là một hình thức ghi chép lịch sử có tính tổng hợp cao hơn phép biên niên. [10]

Nói chung, các nguồn sử liệu này có những giá trị nằm trong các phạm trù riêng biệt mà khi sử dụng người ta cần phải cẩn án theo phương pháp sử để tìm ra sự thật lịch sử. Có người cho rằng "sử quan thường là quan lại của triều đình hoặc là những sĩ phu thấm nhuần tư tưởng nho giáo. Họ ghi chép đúng ý của triều đình và theo quan điểm nho giáo. Lịch sử được phản ảnh trong điều kiện đó cho nên không hẳn hoàn toàn trung thực. Lịch sử cung đình được soạn thảo chính thức để lưu truyền công khai. Thậm chí dân chúng còn bị bắt buộc phải chấp nhận quan điểm lịch sử cung đình. Nó được giảng dạy ở nhà trường, được lưu trữ ở các thư quán, văn khố. Đó là cách ghi chép sử và truyền bá dưới chế độ phong kiến chuyên chế. Ai nói khác sẽ mắc tội phản quốc hoặc khi quân phạm thượng bay đầu như chơi…" [11]

Thật ra phong cách viết sử của các sử gia chính thống dưới các chế độ quân chủ nhiều khi tỏ ra rất phóng khoáng, tự do, chứ không quá khắt khe, cứng ngắc, xưng tụng một chiều quá đáng dòng họ thống trị. Các sử gia chính thống cũng đã biết phối hợp các nguồn tài liệu để đạt tới chân lý lịch sử, khen chê những chỗ hợp tình, hợp lý, sử dụng bút pháp một cách cẩn trọng, không đến nỗi quá phiến diện, thiên chấp. Đọc đoạn văn sau đây sẽ thấy chỗ dụng công của các nhà viết sử chính thống: "Người ta hay chê chính sử có nhiều thiên lệch như trường hợp sử quan nhà Nguyễn gọi Tây sơn là ngụy Tây, Tây tặc, gọi các cuộc chiến đấu của anh em họ là "nhập khấu" (vào ăn cướp)… Sử quan chỉ chép những sự việc của Tây sơn, Trịnh Lê khi chúng có liên quan tới Chúa của họ thôi. Dã sử sẽ bổ khuyết vào sự thiếu sót đó… Chính sử quan nhà Nguyễn cũng biết bổ khuyết tài liệu mình có được bằng cách tham bác dã sử khi viết về tổ chức quân chính triều Tây sơn chẳng hạn. Họ cũng đã dùng những chữ rất kêu để khen tài Nguyễn Huệ, cũng không giấu tật xấu say sưa của Nguyễn Văn Thành, tật ham chơi trong tình trạng chiến tranh của Thành, Duyệt, Huỳnh Đức… Cho đến cả việc quan quân Gia Định có người đi cướp của dân, sách nhiễu dân chúng, họ cũng ghi rõ". [12]  Đó là nhận định của một nhà nghiên cứu sử học miền nam trước năm 1975 khi ngòi bút của giới sử học ở đây không bị câu thúc, không bị lãnh đạo bởi một ý thức hệ chính trị nào.

Ngược dòng quá khứ, ngay chính vua Tự Đức khi ban bút phê về việc biên soạn pho Khâm định Việt sử Thông Giám Cương mục, cũng đã có những ý kiến khoa học, mới mẻ về phương cách chép sử, đã tỏ dấu nghi ngờ về hai niên kỷ Kinh Dương vương và Lạc Long quân, cũng như về phạm vi quá rộng rãi của nước Văn Lang ngày xưa mà cho rằng "chẳng qua là sử cũ chép quá phô trương đó thôi." [13]

Để tìm hiểu quan điểm của giới nghiên cứu sử học miền Bắc đối với các nguồn sử liệu chính thống hay trường phái "lịch sử cung đình", chúng ta thử đọc vào đoạn văn sau đây: "Nói chung nguồn sử liệu chính thống phản ánh tư tưởng, mong muốn và ý đồ chính thức của giai cấp thống trị. Mặt khác, nó cũng mang những thông tin – ở những mức độ chính xác khác nhau – về tình hình chung của cả nước hoặc ở từng đơn vị hành chính. Nguồn sử liệu chính thống bao gồm nhiều mặt khác nhau: chính trị, pháp luật, tài chính, kinh tế, văn hóa, giáo dục, quân sự, ngoại giao v.v… Trong hoàn cảnh nước ta trước đây, khi mà những điều kiện ghi chép sự việc chưa phát triển, nhất là trong các tổ chức tư nhân, nguồn sử liệu chính thống hết sức quý giá. Chẳng hạn, các bộ sử biên niên chính thống của nước ta trước đây (như bộ Đại Việt sử kí toàn thư chẳng hạn) có thể coi là nguồn sử liệu lớn nhất và đáng tin nhất về các thời đại được ghi chép. Một bộ luật còn lại như luật Hồng Đức không chỉ giúp chúng ta hiểu được tư tưởng của giai cấp thống trị ở thế kỉ XV mà còn để lại cho chúng ta một số thông tin đáng quý về tình hình xã hội" [14] Tình hình xã hội là gì, dưới con mắt những người viết sử thuộc giai cấp vô sản, nếu không phải là thực trạng của cuộc sống mọi tầng lớp dân chúng. Khối tài liệu lịch sử viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm (chính sử) còn giữ lại được trong các văn khố quốc gia hay tại các thư viện tư nhân chính là bằng chứng hùng hồn về sức sống mãnh liệt và sinh động của dân tộc Việt Nam.

Về phương diện đánh giá một sử phẩm, mà ở đây lại là một sử phẩm có liên hệ với "lịch sử cung đình", sử gia Nguyễn Phương đã viết: "Các sử phẩm tồn tại được để thách thức với thời gian thường nhờ hai tính cách: tính cách độc nhất của nó, hay là tính cách đúng đắn hợp với sự trình bày tuyệt diệu của nó. Về phương diện độc nhất, một sử phẩm dầu không hay ho gì, cũng vẫn được mọi người quý mến vì những chứng tích chứa đựng trong nó, mà người ta không thể gặp được ở bất cứ một nơi nào khác. Bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư , chẳng hạn, về mặt văn chương, chẳng có gì hấp dẫn bao nhiêu, nhưng nó đã sống được mấy thế kỷ và thiết tưởng bao lâu còn nước Việt Nam nó còn sống mãi như vậy."  [15]

Trong giới sử học Việt Nam, nhất là tại miền Nam trước năm 1975, đã có những nỗ lực để đánh giá lại các công trình biên khảo sử học của trường phái "lịch sử cung đình" chẳng hạn như các công trình biên khảo của sử gia Nguyễn Phương đăng tải trên tạp chí Bách Khoa ở Sài gòn, tạp chí Đại Học ở Huế  trong hai thập niên 60 và 70 với mục đích thử giải quyết một số vấn đề sử học như nguồn gốc dân tộc Việt Nam, phương pháp sử học, vấn đề Tây Sơn (dẫn đến cuộc bút chiến với Văn Tân, viện trưởng viện Sử học Hà Nội, năm 1963, về chủ đề "Ai đã thống nhất Việt Nam, Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh ?") qua đó thẩm định giá trị các nguồn sử liệu chính thống như Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên, phân tích giá trị quyển Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Thời Chí. Cũng thông qua các công trình biên khảo sử học quý giá như Việt Nam, Thời Khai Sinh (1965), Việt Nam Thời Bành Trướng: Tây Sơn (1967), Việt Nam Thời Bành Trướng: Trịnh Nguyễn (chưa xuất bản) nhất là qua tác phẩm Cổ Sử Việt Nam Trong Ngoại Kỷ Toàn Thư (chưa xuất bản), sử gia Nguyễn Phương đã mạnh dạn đánh giá lại các tác phẩm sử học kinh điển của tiền nhân với tinh thần khách quan, khoa học chắc chắn sẽ giúp cho chúng ta có thêm nhiều tư liệu để thẩm định giá trị các sử phẩm ngày xưa một cách công bình, sáng suốt hơn. [16]

Dưới thời các vua nhà Nguyễn, ngành biên soạn sử học đã đi vào nền nếp với những công trình đại qui mô nói lên tầm vóc của nhà nước quân chủ phong kiến như các bộ Khâm Định Việt sử Thông giám Cương mục, Thực Lục, Liệt Truyện Chính Biên, Liệt Truyện Tiền Biên, Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, Đại Nam Nhất Thống Chí, Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu… được tiếp tục bổ sung, biên soạn qua nhiều thế hệ của triều đại nhà Nguyễn. Nhận định về các công trình biên soạn đó, nhà sử học Tạ Chí Đại Trường cho rằng "tổ chức ghi chép sử có hệ thống và công trình lưu lại đồ sộ nhất là của triều Nguyễn thế kỉ XIX. Nhà Nguyễn cũng thực hiện một lối viết sử mới có tính chất tổng hợp hơn so với phép biên niên trước, đó là phép cương mục tóm thâu sự việc vào một đề tài và đưa chi tiết vào sau đó. Thật ra phép cương mục cũng dựa vào lề lối của một bộ sử đồ sộ đời Tống, và Hồ Tông Thốc ở thế kỉ XIV từng viết một bộ Việt sử cương mục đã thất truyền, nhưng bộ Khâm định Việt sử cương mục của Quốc sử quán Nguyễn quả là lớn nhất theo lối này ở Việt Nam."  [17]

Sau này cũng đã có nhiều nỗ lực để phiên dịch và ấn hành các công trình nghiên cứu, biên soạn sử học của các triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam của nhà cầm quyền trước đây ở miền Nam do cố gắng của một số cơ quan như Ủy Ban Phiên Dịch Sử Liệu, Phòng Nghiên Cứu Sử thuộc Viện Đại học Huế, Viện Khảo Cổ, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa, và một số cơ sở tư nhân ở Sài Gòn. Trong tinh thần tự do, dân chủ, ngành sử học của miền Nam đã có những bước phát triển trong quan điểm nghiên cứu, sáng tác.

 …Đến khuynh hướng lịch sử dân gian.

Lịch sử dân gian hay dã sử cũng chỉ là một tức là do dân chúng ngoài dân gian viết ra, như đã nhắc đến khi phân tích về quan điểm lịch sử cung đình. Giáo sư Nguyễn Thế Anh đã cho rằng: "Bên cạnh các bộ chính sử, còn có những bộ dã sử (nhất là từ khoảng thế kỷ XI trở đi); đấy là những quyển sách do tư nhân soạn, do những văn gia đã muốn chép lại những sự việc có liên quan đến lịch sử. Các quyển dã sử này cho phép bổ túc hay đính chính những điều sai lầm hay thiên lệch của những bộ sử do các sử quan thực hiện. Tuy nhiên, dù là chính sử hay dã sử, việc chép sử vẫn chỉ là độc quyền của một giai cấp xã hội hạn chế, giai cấp sĩ phu. Giới này, dù viết sử tại sử quán theo lệnh của nhà vua, hay chép sử tự ý mình, cũng chỉ nhìn thấy có một khía cạnh của sự việc mà thôi, và các tác phẩm của họ chỉ phản ảnh các chuyên tâm của giai cấp sĩ phu; họ nhìn các giai cấp xã hội khác theo cái nhìn riêng của giới sĩ phu: các hoạn quan là địch thủ của họ tại triều đình, thường được trình bày như là những loạn đảng; giới thương gia của các đô thị ít khi được đề cập đến; nông dân chỉ được nhắc đến khi mà họ nổi loạn và đe dọa trật tự xã hội".  [18]

Những người viết dã sử hay sử liệu tư nhân đa số đều không muốn để tên họ rõ ràng trên tác phẩm của mình, có lẽ là do họ ưu tư về những di lụy, vướng víu với những hệ quả do ảnh hưởng của tác phẩm gây ra cho họ và cho con cháu về sau, là những tư nhân hay văn gia có ý muốn biên soạn lại những biến cố hay sự kiện có liên quan đến lịch sử  do ý thích của mình hay do những quan hệ nào khác khiến cho họ cảm thấy thôi thúc cần viết lại. Vấn đề tư nhân viết sử, xuất phát do việc Khổng Tử viết sách Xuân Thu, đã làm tăng thêm tính sáng tạo trong nền sử học Việt Nam vốn chịu rất nhiều ảnh hưởng của văn hóa Trung quốc [19].

Thật ra, dã sử cũng đã đóng góp rất nhiều trong việc bổ khuyết cho chính sử, đã giúp cho người viết sử giải quyết được rất nhiều vấn nạn trong khi nguồn sử học chính thống  không đủ tư liệu để cung cấp lời giải đáp do vấn đề liên quan đặt ra. Lấy một thí dụ về cuộc nổi dậy của anh em Tây Sơn, bên cạnh những tài liệu về chính sử như Thực Lục, Liệt Truyện, Cương Mục, giới nghiên cứu sử học cũng đã sử dụng rất nhiều tài liệu dã sử như Tây Sơn sử truyện, Vãn Lê di sử, Tây Sơn thuật lược, Lê kỷ dã sử, Việt sử bổ di... để xây dựng lại quá khứ của một thời kỳ nhiễu nhương đen tối trong lịch sử Việt Nam. Những giai thoại lịch sử, những lời đồn, những câu ca dao, đồng dao, những lời nói ví von, ẩn dụ mà căn bản là của những câu chuyện dã sử đã cung cấp cho sử gia rất nhiều chất liệu để xây dựng lại cả một giai đoạn lịch sử kéo dài từ năm 1775 đến năm 1802. Câu chuyện tấm biển đồng đề các chữ  "Tây sơn Nguyễn Nhạc vi vương" đặt trên núi cao đêm đêm có lửa rọi vào cũng nằm trong âm mưu thần thánh hóa lãnh tụ do chính Nguyễn Nhạc tạo dựng nên đã được dã sử ghi lại. Chuyện kể rằng: "Nhạc là người cơ trí, bèn làm một biển đồng khắc sáu chư "Tây sơn Nguyễn Nhạc vi vương". Ban đêm ông sai người đem lên dựng tận trên đỉnh núi, rồi cứ canh hai cho đốt lửa chiếu vào. Người ta ai cũng lấy làm lạ. Nhân có ngày giỗ, Nhạc mời người khắp nơi đến dự. Tối đó, khi ăn uống no say rồi, bọn hương hào bảo nhau: "Đã hai tháng nay, ở trên núi ban đêm có lửa,! không hiểu chuyện gì?" Tất cả hùa nhau đi xem, Nhạc cũng xin đi theo. Khi họ đến lưng chứng núi, ở trên bỗng có tiếng hô to xuống rằng: "Chúng bay lên núi làm gì? Có ai là Nhạc đó không?" Họ khiếp sợ, Nhạc cũng thất kinh. Họ thưa lại rằng: "Tên thần hỏi Nhạc làm gì?" Người trên núi nói: "Chúng bay dừng lại đó, chỉ Nhạc được lên nhận mật thư thôi". Nhạc run sợ, kêu nài mọi người xin cho khỏi phải lên, nhưng không sao được. Rồi Nhạc lên núi nhận xuống một tấm biển mang về nhà. Khi thấy tên học được ghi rành rành, ai nấy đều kinh khủng. Hôm sau, ông giết trâu bò cùng dân chúng thề ước chiêu quân. Mọi người đều cho là điềm tốt. Nhiều kẻ tin theo Nhạc." [20]  Câu chuyện được vận dụng trong một thời điểm mà sự mê tín vốn là hiện tượng rất phổ thông trong tâm thức quần chúng Việt Nam, chắc chắn không phải là không có tác dụng tranh đoạt được sự ủng hộ của dân chúng nhất là những kẻ ít học.

Với câu nói ngắn ngủi như "binh triều binh Quốc phó, binh ó binh Hoàng tôn" tuy là của một tài liệu chính sử [21] nhưng tính chất tuyên truyền mang đậm ý nghĩa đả phá và tôn phù do Tây sơn đưa ra trong buổi đầu của cuộc khởi nghĩa, lại dường như mang dáng dấp của một lời đồn chính trị rõ ràng nói lên ý thức đối kháng giữa hai lực lượng một bên là quân đội của Quốc phó Trương Phúc Loan (tham nhũng, thối nát)) và một bên là lực lượng của Tây sơn là lực lượng của đông đảo nhân dân (khi xung trận thì la ó vang trời để trợ lực cho thanh thế) lúc bấy giờ đang ủng hộ hoàng tôn Dương, cho thấy "cả một mánh lới tuyên truyền đầy ý nghĩa và hiệu lực"  [22].

Về dáng dấp, khuôn mặt của một nhân vật lừng danh như Nguyễn Huệ, tài liệu của sử quan triều Nguyễn mô tả ông là người có tiếng nói sang sảng như chuông, tướng đi như hổ, cử chỉ nhanh nhẹn như điện chớp và người đời lúc bấy giờ sợ quân Tây sơn như sợ cọp.  Một tài liệu dã sử khác được cho là tả đúng khuôn mặt của Nguyễn Huệ một cách thực hơn: "Tóc Huệ quăn, mặt mụn đầy, có một con mắt nhỏ, nhưng mà cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu…" [23] hầu như đem lại cả một phong vị thích thú cho người đọc sử về sau hơn là khi đọc thấy nhưng lời mô tả chân dung mang tính ước lệ của văn phong kinh điển của ngòi bút sử quan ngày trước.

Thêm vào đó những câu ca dao lịch sử trước sau thuộc vào giai đoạn tao loạn đó cũng có ít nhiều đóng góp sử sự cho các nhà biên soạn lịch sử về sau như:

Trăm quan có mắt như mờ,

Để cho Huy-quận vào rờ Chính-cung.

nói về việc thông gian giữa quận Huy Hoàng Đình Bảo với Đặng Thị Huệ, mẹ của Trịnh Cán dẫn đến sự sụp đổ của họ Trịnh.

Hay câu:        

Đầu cha lấy làm chân con

Mười bốn năm tròn hết số thì thôi…

là một lối chơi chữ chiết tự như sau: chữ quang (tên Quang Trung) có chữ tiểu ở trên đem xuống để vào phần dưới của chữ cảnh (tên Cảnh Thịnh, con Quang Trung).

Hoặc câu ca dao được truyền tụng một thời:

Lạy trời cho chóng gió nồm,

Cho thuyền chúa Nguyễn dong buồm thẳng ra…

nói lên phần nào lòng dân chúng lúc bấy giờ đối với thời thế có vẻ nghiêng chìu về phía ủng hộ chúa Nguyễn Ánh.

Dĩ nhiên lợi điểm thứ nhất của dã sử là không bị ràng buộc vào khuôn phép khắt khe của triều đình, vào dư luận một chiều hay bầu không khí hoặc mô thức được đóng khung sẵn của xã hội đương đại. Tuy vậy, sự phổ cập nội dung một tài liệu dã sử cũng khó thực hiện nếu nó mang nhiều tính cách chống đối chính quyền hoặc đi ngược lại với dư luận chung trong xã hội. Tư liệu lịch sử do đó sẽ chỉ được lưu truyền trong dòng tộc, bà con mang tính cách của một thứ gia bảo, hay gia phả không tiện phổ biến ra bên ngoài.

Do những hạn chế trong việc bảo lưu tài liệu dã sử trong gia đình nên loại tài liệu này đã bị thất truyền, tam sao thất bản qua thời gian khiến cho việc biên soạn lại lịch sử đất nước gặp nhiều khó khăn mà chính Ngô Sĩ Liên, tác giả Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cũng đã phải thốt lên rằng: "Nước ta thiếu sử sách biên chép, mà sự thực đều do truyền văn, lời ghi có phần quái đản, công việc hoặc có sót quên, cho đến sao viết không đúng, biên chép phiền tạp, chỉ làm loạn mắt…" Dĩ nhiên việc sử dụng tài liệu dã sử đòi hỏi sử gia óc phê phán, phân tích và tổng hợp theo tinh thần khoa học, biết cân nhắc các tư liệu khi đến tay, đánh giá sử liệu với đầu óc nhạy bén, sâu sắc. Việc sử dụng nhuần nhuyễn tài liệu dã sử đòi hỏi nhiều công phu về cẩn án vì phải truy nguyên nhiều thứ có liên quan tới tài liệu ví dụ tác giả, nguồn gốc xuất phát tư liệu, thời điểm, địa điểm, môi trường gia đình, xã hội, thể loại sáng tác (cũng có liên quan phần nào đến địa phương và thời điểm lưu hành tác phẩm).

Một điểm cần lưu ý là sử liệu tư nhân đa số đều là những nguồn sử liệu tiên nguyên, sử liệu trực tiếp hay là sử liệu đầu tay nghĩa là "tác giả trực tiếp biết sự kiện hoặc là nhờ chính mắt thấy, hoặc nhờ chính tai nghe, hay là chính tác giả là người đã đóng một vai trong các việc xảy ra". [24] Trường hợp này có thể dẫn chứng với tác phẩm Vũ Man Tạp Lục Thư của Nguyễn Tấn (1821-1871) [25]. Tác giả là một viên Tiễu phũ sứ thuộc sơn phòng Quảng Ngãi, đã tình nguyện đảm nhiệm công cuộc bình định nhóm man Đá Vách từng gây nhiều khốn đốn cho triều đình nhà Nguyễn từ năm 1770 cho đến gần một trăm năm sau. Năm 1863, ông lãnh trách nhiệm ra quân dẹp giặc mọi ở miền núi hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Sau chưa đầy ba năm, ông dẹp xong và thu thập tất cả mọi hiểu biết của ông về núi rừng địa phương cùng phong tục tập quán của các sắc dân thiểu số ở đó, lịch sử kiến trí duyên cách miền thượng du để viết nên tác phẩm độc đáo Vũ Man Tạp Lục Thư mà chính cụ Cao Xuân Dục đã đánh giá là "Tập sách này cũng dùng để bổ túc cho các sách sử trước đây chưa đầy đủ, soi rõ thêm các điều chưa tường tận" và Henri Maitre, một nhà nhân chủng học nổi tiếng ở Đông Dương trước đây nhận xét đó là một tập hồi ký cung cấp những ghi nhận rất chính xác, rất quý giá về các sắc dân thiểu số ở Quảng Ngãi, thêm vào một trang sử rất kỳ thú về lịch sử xứ ta. [26] Vũ Man Tạp Lục Thư đã là một nguồn tài liệu đầu tay và tiên khởi viết về lịch sử vùng thượng du Quảng Ngãi, Bình Địn! h do viên Tiễu phủ sứ đầu tiên viết ra và truyền lại cho con cháu trong dòng tộc ông ở Quảng Ngãi làm kim chỉ nam cho việc bình định các sắc tộc thiểu số ở đây. Các sách vở, trước tác, biên khảo của người Pháp viết về vùng cao Nghĩa Định, rồi phần lớn các sử liệu của triều Nguyễn hoặc sách vở của các tác giả Việt Nam về sau, khi muốn truy cứu về các sắc dân thiểu số ở hai tỉnh này đều dựa trên tác phẩm Vũ Man Tạp Lục Thư.  Chính một người trong dòng tộc Nguyễn Tấn, Diên-Lộc quận công Nguyễn Thân cũng đã nối tiếp sự nghiệp của cha ông từ chốn rừng cao núi cả của Nghĩa Định sơn phòng, ổn định cuộc sống người dân thượng du ở đó, phát triển các phương lược chiến đấu và củng cố tư thế vững mạnh cho cơ sở quốc phòng và phát triển ở núi rừng miền tây Trung kỳ, nhờ vào kinh nghiệm tích lũy từ cuốn sách Vũ Man Tạp Lục Thư này [27].

Đối với những người viết sử theo khuynh hướng vô sản mác xít, việc thừa nhận các thành quả của nền sử học tư sản quả thật là khó khăn. Tuy vậy, trước những kết quả khó lòng phủ nhận được giá trị của nguồn tư liệu chúng ta đã thử lược qua ở hai phần tham khảo và nhận định nói trên, chính họ cũng phải xác nhận rằng "sử liệu tư nhân thực sự là nguồn sử liệu có giá trị và phong phú nhất về sinh hoạt xã hội và kinh tế, văn hóa hiện đại cũng như thời xưa. Nghiên cứu các vấn đề lịch sử kinh tế, xã hội thời xưa mà thiếu nguồn sử liệu tư nhân tức là thiếu về cơ bản tình hình thực tế của các vấn đề đó." [28]

Từ khi việc biên soạn lịch sử do độc quyền của các viên chức nhà nước dưới các chế độ quân chủ phong kiến hình thành có qui củ đến ý thức tự viết lấy lịch sử và do đó tạo nên khuynh hướng dã sử ở ngoài khuôn khổ của triều đình, thật ra nền sử học Việt Nam nói chung cũng chỉ nhắm nhiều vào mục đích nêu gương tốt, bài trừ việc xấu, răn dạy hậu thế với những sử sự điển hình, chung chung. Đến khi người Pháp có mặt ở Đông Dương, khuynh hướng viết sử mang một chiều hướng mới, và về sau sử học lại đi tới nhiều bước phát triển quan trọng chứa đựng các sắc thái cá biệt, xung khắc lẫn nhau trong khuôn khổ của các cuộc chạm trán ý thức hệ chính trị mà chúng tôi sẽ đề cập đến trong một bài nghiên cứu sau.                                                                                                

                                                                                               

CHÚ THÍCH:

1.- Một bài phú nổi danh của Tô Thức tức Tô Đông Pha (1036-1101) thời Đường.

2.- Nói về những cuộc luận chiến giữa các quan điểm sử học mác-xít và sử học quốc gia trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam trước đây khởi đi từ việc bút chiến giữa Văn Tân của Viện sử học Hà Nội với giáo sư Nguyễn Phương ở Sài gòn trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử (1959) và tạp chí Bách Khoa & tạp chí Đại Học (1963, 1964) ở Sài Gòn và Huế về chủ đề "Ai đã thống nhất Việt Nam, Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh" đến việc các sách vở Cộng Sản viết sau năm 1975 lên án một số các sử gia miền Nam như Nguyễn Phương, Tạ Chí Đại Trường về các vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam, phương pháp luận sử học, vấn đề Tây sơn v.v… và trong các trại học tập cải tạo của nhân viên và quân đội chế độ VNCH sau ngày 30-4-1975.

3.- Trương Như Tảng, A Viet Cong Memoir, Nhà xuất bản Vintage Books, New York, 1985, tr.5.

4.- Trần Gia Phụng, Án tích Cộng Sản Việt Nam, Nxb. Non Nước, Toronto, Canada, 2001, xem Lột trần huyền thoại Hồ Chí Minh, tr. 335.

5.- Tạ Chí Đại Trường, Những bài văn sử, Nxb. Thanh Văn, California, tr. 137.

6.- Nguyễn Phương, Phương pháp sử học, Phòng Nghiên Cứu Sử, Viện Đại Học Huế xb.,1964, tr. 71.

7.- Vương Tuệ Mẫn (chủ biên), 100 Danh Nhân Có Ảnh Hưởng Đến Lịch Sử Trung Quốc, bài Tư Mã Thiên, sử gia thông hiểu những thay đổi xưa nay tự trở thành trường phái riêng, tác giả Trương Đại Khả. Bản dịch của Tiến Sĩ  Nguyễn Văn Dương, Nxb. Văn  Hóa – ThôngTin, 2002, tr. 280.

8.- Nguyễn Phương, Sách đã dẫn, tr. 133.

9.- Nguyễn Thế Anh, Nhập Môn Phương Pháp Sử Học, Sài Gòn, 1974, tr. 10.

10.- Tạ Chí Đại Trường, Những bài văn sử, Nxb. Thanh Văn, Cali., 2000, tr. 137.

11.- Đại Dương, Thư gởi người mới quen, Diễn Đàn Tự Do số 3, 30-9-1995.

12.- Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802, Nxb. Văn Sử Học, Sài Gòn, 1973, tr. 16.

13.- Nguyễn Phương, Việt Nam Thời Khai Sinh, Phòng Nghiên Cứu Sử, Viện Đại Học Huế xb, 1965, tr. 155.

14.- Lê Văn Sáu, Trương Hữu Quýnh, Phan Ngọc Liên, Nhập Môn Sử Học, Nxb. Giáo Dục, 1987, tr.101.

15.- Nguyễn Phương, Phương Pháp Sử Học, Sđd, tr. 59-60.

16.- Nguyễn Đức Cung, Viết về một sử gia Việt Nam đã ra đi, Linh mục Trúc Long Nguyễn Phương (1921-1993), Tạp chí Văn Nghệ Tiền Phong, số 435-436,  tháng 1 và 2 năm 1994, xb. tại Virginia, Hoa Kỳ. Nguyễn Đức Cung, Tưởng niệm  sử gia Nguyễn Phương, nguyệt san Đất Mẹ, Houston, số 49, tháng 2 – 1994. Trần Gia Phụng, Sử gia Nguyễn Phương, người đặt vấn đề, trong Những câu chuyện Việt sử, tập 2, Nxb, Non Nước, Toronto, 1999, tr. 393.

17.- Tạ Chí Đại Trường, Những bài văn sử, Sđd. tr. 137.

18.- Nguyễn Thế Anh, Sđd, tr. 5.

19.-Vương Tuệ Mẫn, Sđd, bài Khổng Tử, gương sáng muôn đời sánh ngang quân thân (vua và cha mẹ) Trời Đất, của Trương Kỳ Hồng, tr. 41.

20.- Nguyễn Phương, Việt Nam Thời Bành Trướng: Tây Sơn, Nxb. Khai Trí, Sài Gòn, 1967, tr. 31.

21.- Chính biên liệt truyện, q.30, 2b.

22.- Nguyễn Phương, Việt Nam Thời Bành Trướng: Tây Sơn, Sđd, tr. 41.

23.- Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến… Sđd, tr . 271.

24.- Nguyễn Phương, Phương Pháp Sử Học, Sđd, tr. 69.

25.- Nguyễn Đức Cung, Lịch Sử Vùng Cao Qua Vũ Man Tạp Lục Thư, Nxb. Nhật Lệ, Philadelphia, Hoa Kỳ 1998.

26.- Nguyễn Đức Cung, Sđd, tr. 84.

27.- Nguyễn Đức Cung, Diên-Lộc Quận-Công Nguyễn Thân, Nxb. Nhật Lệ, Philadelphia, Hoa Kỳ, 2002, tr. 90.

28.- Lê Văn Sáu, Trương Hữu Quýnh, Phan Ngọc Liên, Sđd, tr. 102. 

Bài 2: DÃ SỬ – MỘT CÁI NHÌN QUY CHIẾU VÀO TƯ LIỆU TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM

(12 tháng 04 năm 2007)

Trong bài trước [1] chúng tôi đã có dịp nói về dã sử tức là nguồn sử liệu tư do tư nhân viết khác với nguồn sử liệu công do quốc sử quán ngày xưa hay nhân viên nhà nước gọi là sử quan viết, và thấy được vai trò của nó trong việc bổ túc những thiếu sót, khiếm khuyết của chính sử. Trong quá trình biên khảo loạt bài này, chúng tôi lại có cơ hội được đọc một số tài liệu phản ảnh ý kiến của một số nhà sử học về vấn đề sử liệu trong đó có nói tới dã sử và thẩm định giá trị của nó thì thiết tưởng đó cũng là dịp tốt cho phép chúng tôi khai triển thêm.

Thật sự, dã sử là một vấn đề khá phức tạp và vai trò cùng giá trị của nó có khi lại được đánh giá một cách hết sức tùy tiện mà nhịp độ của thủy triều lên xuống trong việc thẩm định lại chính là lòng thương ghét của nhà viết sử chiếu theo nhu cầu viết lách của họ và cảm tính thời thượng trong xã hội. Nền sử học chính thống hình thành do các nguồn sử phẩm của các triều đình quân chủ nước ta thông qua hoạt động của quốc sử quán, vốn có sự đóng góp tích cực của nguồn sử liệu dã sử trong đó có chuyện thật xen lẫn chuyện hoang tưởng. [2] Khi sử dụng dã sử, người ta cần áp dụng phương pháp sử để phân tích, cẩn án, khảo chứng (evidential research) các tư liệu đưa ra dùng để "gạn đục khơi trong", hầu lọc lấy phần tinh hoa của sự thật, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Danh xưng của nguồn tư liệu dã sử cũng có nhiều cách gọi tùy theo đặc tính và công dụng của nó.

Ở Trung Hoa, loại dã sử cũng có những khác biệt với chính sử mà trong một tác phẩm biên khảo rất công phu về ngành thư tịch học Trung Hoa, cuốn Chinese History, A Manual, (Trung Quốc Lịch Sử Thủ Sách), Endymion Wilkinson  đã có đề cập đến như sau:

1.- Các bộ môn cùng loại với dã sử trong nền sử học Trung quốc:

Tư sử (sishi): Theo tác giả này, có rất nhiều công trình biên soạn lịch sử do tư nhân đảm trách đã phụ trợ đắc lực cho ngành viết sử do nhà nước chủ trì. Theo ông, các tác phẩm như Tả Truyện (Zuozhuan) hoặc Sử Ký (Shiji) là những cuốn sách sử rất nổi tiếng mặc dù khởi công từ sáng kiến của chính quyền nhưng đều cũng đã được tin tưởng giao phó cho các tư nhân biên soạn. [3] Trong các sử phẩm ấy, các học giả cũng tự do đưa ra các điều biện luận thông tuệ, nghiên cứu các tài liệu nguyên bản và các tài liệu bút ký.  Tả Truyện hay có tên gọi khác là Tả Thị Xuân Thu ra đời vào khoảng cuối thế kỷ thứ IV trước Công nguyên do tác giả là Tả Khâu Minh. Đây là bộ sử Xuân thu viết theo thể loại biên niên. Tả Truyện là sách vừa chú giải kinh Xuân thu của đức Khổng, vừa chép sử Trung Hoa thời Xuân Thu, và chứa đựng nhiều chi tiết hơn bộ kinh Xuân thu [4]. Đầu đời Hán, có hai nhà chú giải kinh Xuân Thu là Công Dương Cao và Cốc Lương Xích.  Đối với Sử Ký [5] của Tư Mã Thiên, hầu hết mọi người đều thừa nhận tầm vóc vĩ đại của nó, nhất là tinh thần tự do sáng tác của tác giả thật là khoáng đạt. Tư Mã Thiên tên chữ là Tử Trường, người đất Hạ dương, quận Tả Phùng Dực, con của Tư Mã Đàm nối đời chuyên nghiệp viết sử. Để chuẩn bị kiến thức cho công tác biên khảo sử học sau này, Tư Mã Đàm đã khuyên con đi du lịch khắp nơi để mở rộng kiến thức. Nhữ Thành viết về các chuyến đi (du khảo hay điền dã) khá liên tục củ! a Tư Mã Thiên như sau: "Tư Mã Thiên trước tiên đi về nam đến Trường Giang, vượt sông Hoài, sông Tứ, thăm mộ mẹ Hàn Tín, đoạn lên núi Cối Kê xem nơi vua Hạ Vũ triệu tập chư hầu, vào hang Vũ Động tìm di tích vua Vũ. Ở Cối Kê ông đã nghe những chuyện kể về vua Việt Câu Tiễn. Ông lên Cô Tô tìm di tích Ngũ Tử Tư, đi thuyền trên Thái Hồ sưu tầm truyền thuyết về Tây Thi, Phạm Lãi. Sau đó, ông đi ngược lên Trường Sa, đến bến Mịch La khóc Khuất Nguyên, đến sông Tương trèo lên núi Cửu Nghi nhìn dấu vết mộ vua Thuấn và khảo sát những tục cũ từ thời Hoàng Đế. Ông lên miền bắc vượt sông Vấn, sông Tứ đến nước Tề, nước Lỗ, bồi hồi nhìn lăng miếu của Khổng Tử, say sưa nghe nhân dân kể chuyện Trần Thiệp, đến đất Tiết thăm hỏi di tích của Mạnh Thường Quân, lên Bành Thành quê hương Lưu Bang để tìm hiểu rõ thời niên thiếu của những con người đã dựng nên nhà Hán. Ông sang nước Sở thăm đất phong của Xuân Thân Quân, đến nước Ngụy hỏi chuyện Tín Lăng Quân rồi trở về Tràng An. Sau chuyến đi ấy kéo dài ba năm ông còn đi những chuyến khác cũng để tìm tài liệu." [6] Năm đầu Thái sơ (104 tr. CN) Tư Mã Thiên khởi viết bộ Sử Ký. Năm 98 tr. CN, vì bênh vực cho người bạn là Lý Lăng trong vụ đầu hàng Hung Nô, Tư Mã Thiên bị tống giam vào ngục và chịu nhục hình bằng cách bị thiến bộ phận sinh dục. Nhiều lần ý nghĩ tự tử đã đến với ông nhưng ông quyết vượt lên để sống mà viết sách, hoàn thành cho được lời di huấn của cha. Trương Đại Khả đã nói về tâm sự u uất của Tư Mã Thiên như sau: "Chịu họa Lý Lăng khiến cho lập trường của Tư ! mã Thiê! n có sự thay đổi lớn.Ông đã giải thoát khỏi sự buồn giận cá nhân, căm hờn biên soạn. Sau khi ra khỏi ngục, đảm nhiệm chức Trung thư lệnh [7], tuy tuân mệnh nhậm chức, nhưng lòng như tro lạnh. Ông đã trút sự căm tức và bất bình của mình vào trong bộ Sử ký, trở thành "một trường phái riêng" [8]. Kết quả làm việc của ông là một công trình sử học lừng danh cổ kim do tinh thần bền chí, nhẫn nhục và thiên tài của ông ra đời với hơn 53 vạn chữ, gồm 130 thiên, mở đầu cho thể kỷ truyện khai sáng một thời đại mới trong sự phát triển của nền sử học Trung Hoa.

Ban Cố (32-92 sau CN), tác giả Tiền Hán Thư, đã phê bình về tác phẩm của Tư Mã Thiên như sau: "Thánh nhân (chỉ Tư Mã Thiên – N.D.) e cũng có chỗ sai, nói về Đạo lớn lại nhắc đến Hoàng Lão (tức Hoàng đế và Lão tử, chỉ Đạo gia vào đời Hán – N.D.) trước rồi sau đó mới  đến Lục kinh, viết lời tựa về du hiệp thì chê ẩn sĩ mà tiến dẫn gian hùng, kể về kinh doanh buôn bán thì sùng kính kẻ thế lực mà dè bỉu kẻ nghèo hèn, đó là cái tệ của ông." (Hán thư, "Tư Mã Thiên truyện"). [9]

Nhà sử học Trương Đại Khả đã nhận định về lời phê phán của Ban Cố và phân tích quan điểm sử học của Tư Mã Thiên bằng những lời lẽ chắc nịch như sau: "Ban Cố phê bình cái "tệ" của Tư Mã Thiên lại hoàn toàn là cái "sáng suốt" (minh) rực rỡ đẹp mắt trong tư tưởng của Tư Mã Thiên. Tư Mã Thiên "nói về Đạo lớn mà lại nhắc đến Hoàng Lão trước rồi sau đó mới đến Lục kinh" chính là khẳng định sự thái bình trong cách trị nước của Văn Cảnh [10] mà phủ định sự suy bại được tạo thành do những ham muốn của Hán Vũ Đế; kể về kinh doanh buôn bán lại viết truyện cho thương nhân là khẳng định thương nhân đã thúc đẩy phát triển sản xuất, có cống hiến đối với sự phồn vinh của kinh tế xã hội; khen ngợi hiệp sĩ là khẳng định đạo đức của loại người này có thể hy sinh thân mình, cứu người nguy khốn. Trên thực tế, qua việc ca ngợi Hoàng Lão, thương nhân, hiệp sĩ, Tư Mã Thiên đã bày tỏ sự ngưỡng vọng của ông đối với chính trị cởi mở, khẳng định ý thức cầu lợi của nhân dân và phản đối thế lực  cường bạo đối với nhân dân. Chính những tư tưởng này đã thể hiện thước đo khen chê nhân vật và sự kiện lịch sử của Sử ký, không chịu sự hạn chế của tư tưởng chính thống giai cấp thống trị, mà là lập luận từ lợi ích của nhân dân bị áp bức trên một mức độ nhất định, đây chắc chắn là tư tưởng tiến bị nhất của thời đại lúc bấy giờ". [11]

Phải nói rằng những nhận định của nhà sử học họ Trương được phát biểu một cách ngay thẳng, khá tự do trong tình hình chính trị của Trung quốc mấy năm gần đây vốn không khác gì tình hình Trung quốc cách nay gần hai ngàn năm, vô hình trung càng làm nổi bật cái nhìn viễn kiến của sử gia Tư Mã Thiên, thí dụ đối với vai trò của thương nhân (trong bài Hóa thực liệt truyện) hay chế độ chính trị đầy áp bức của giới cầm quyền đối với nhân dân trong nước (Trung Hoa hay Việt Nam cũng giống nhau vậy thôi), mặc dù tác giả này cũng đã cố gắng tránh né không trả lời đích thực vào những điểm Ban Cố phê phán về Tư Mã Thiên như "chê ẩn sĩ mà tiến dẫn gian hùng, sùng kính kẻ thế lực mà dè bỉu kẻ nghèo hèn"! Trương Đại Khả nhận xét thêm rằng: "Tư Mã Thiên không phải là "ca sĩ của nhân dân", ông tuyên dương đại nhất thống, phục vụ cho sự củng cố phong kiến thống trị, cho nên Sử ký được coi là chính sử." [12]

Thật ra, với chính sách bãi truất bách gia, độc tôn nho thuật, Hán Vũ-Đế (140-88 tr. CN) đã mở đường cho các hạng nho sĩ, trí thức Trung quốc đi vào chính quyền qua sách vở của thánh hiền (Nho học, khoa cử). Các sáng tác của giới nho sĩ nếu có đề cao chính quyền đương thời cũng là chuyện tất nhiên, bởi vì uống nước phải nhớ nguồn …

Bút ký (biji): Cũng theo Endymion Wilkinson, đây cũng là một loại tư sử nhưng mang một hình thức khác mà công dụng là cũng để góp phần bổ túc cho những thiếu sót của chính sử. Danh từ bút ký (informal jottings) có thể hiểu như đoản bút khác với lối dùng của thể văn bút ký ta dùng hiện nay.[13]

Biệt sử (bieshi): Loại này cũng thay đổi theo thời gian và được dùng để gọi những tư liệu không thuộc ngành chính sử và đàng khác nó cũng không phải loại sử liệu được viết theo thể biên niên hay thể kỷ truyện. Tác giả E. Wilkinson cho rằng biệt sử là một thể loại để chỉ những sử phẩm tương đối nghiêm túc nằm giữa loại chính sửdã sử.

Bại sử (baishi): Theo Thiều Chửu trong Hán Việt Tự Điển, chữ bại này viết một bên chữ hòa (lúa) một bên chữ ti (thấp) có hai nghĩa: 1.-  Một thứ cỏ giống lúa hơi đắng, có thể nấu cháo ăn được. 2.- Nhỏ mọn, như bại thuyết- truyện tiểu thuyết; bại quan- chức quan bé. Hiểu theo ý nghĩa thứ hai thì bại sử là loại sử chuyên viết về những chuyện vụn vặt, tản mạn, bên lề của một sự việc, một biến cố, một nhân vật nào đó. Với tác giả E. Wilkinson, bại sử là thuật ngữ thỉnh thoảng được dùng trong các cuốn  danh mục về sách và như vậy thuật ngữ này cũng nằm ngoài chính sử.

Ngoài ra, E. Wilkinson còn cho biết các thuật ngữ như biệt sử, tạp sử, bại sử hay tư sử cũng có khi được kể chung như là dã sử. Dã sử vốn là ngành rất thịnh hành trong thời Nam Bắc Triều (220-589), Tống (960-1279), Minh (1368-1644). [14] Sự phong phú trong các thuật ngữ Trung Hoa dành cho loại dã sử cùng các loại có phong cách viết lách tương tự đã được các tài liệu sách vở nước này trưng dẫn đầy dẫy trong các tạp chí, sách nghiên cứu, và các quyển từ điển giá trị như Khang Hy tự điển, Từ Nguyên, Từ Hải v.v… định nghĩa và phân tích tường tận.

2.- Các loại tư liệu trợ lực cho chính sử Việt Nam.

Ngành dã sử ở nước ta cũng không đi ra ngoài khung khổ của ảnh hưởng Trung Hoa về phương pháp biên soạn. Nội dung của bộ môn dã sử cũng có những mặt ưu điểm và khuyết điểm; điều quan trọng là người ta phải biết cách sử dụng để rút ra được những mách bảo hữu ích vốn có trong tư liệu. Tuy nhiên nếu đem ra so sánh với các thuật ngữ của Trung Hoa ở trên chắc hẳn loại dã sử của nền sử học của nước ta cũng không kém phần phức tạp, rắc rối. Giáo sư Dương Quảng Hàm đã có những nhận thức xác đáng về loại dã sử như sau: "Xưa nay, người nước ta chỉ biết trọng và đọc chánh-sử mà có ý khinh thường dã-sử. Thực ra, dã-sử cũng quan trọng bằng chánh-sử, vì nhiều khi có thể nhờ đấy mà sửa lại được những điều sai lầm hoặc thiên-lệch của những bộ sử do sử-thần có khi vì sự tây-vị hoặc thế lực áp-bách mà chép sai đi. Một lẽ nữa là vì chánh-sử thường chỉ chú trọng về việc nhà vua và việc triều-đình, nhiều khi chép cả những việc không quan-trọng lắm; trái lại, thường bỏ khuyết hoặc chép rất sơ-lược những việc có liên-lạc đến cách sinh-hoạt của dân chúng, tình-hình xã-hội, kinh-tế trong nước, cùng phong tục, tín-ngưỡng của người dân. Vậy muốn bồi bổ những khuyết-điểm ấy, nhiều khi phải tra-cứu ở các dã-sử mới thấy." [15]

Ở Trung Hoa cũng như ở Việt Nam trước kia trong thời quân chủ, ngành viết sử thường nằm trong tay các bậc khoa bảng, trí thức vốn đại diện cho một tầng lớp ý thức hệ cầm quyền tức là Nho học, cho nên người ta vốn có thói quen tôn trọng những cái gì của chính quyền hoặc xuất phát do chính quyền. Có lẽ ý thức tôn trọng chính sử không chỉ riêng dân Việt Nam ta mới có nhưng cũng chính là lề thói khá phổ biến trong nhiều nước trên thế giới do việc viết sử trước đây ngay cả nghề viết sử được coi là chuyên biệt của những nhà văn thuộc giai cấp thống trị hay có khi là một nghề "truyền tử lưu tôn" như trường hợp Tư Mã Thiên chẳng hạn. Tính cách độc quyền trong việc chép sử ở Tây phương thời xưa cũng được tiết lộ nhờ Suétone [16] "có để lại cho chúng ta một bản văn của Cornelius Nepos (khoảng 100- 25 trước t.l.), trong đó ông này ngạc nhiên vì một người nô lệ mới được giải phóng đã dám cả gan viết sử." [17] Những lời của giáo sư Dương Quảng Hàm trích dẫn ở trên kia vốn là quan điểm của một người cầm bút cách đây hơn sáu mươi năm, chứng tỏ mặc dù tuy không phải là chuyên gia về ngành sử học nhưng ông lại có thái độ rất chính chắn khi nhận xét về vai trò của các loại chính sử và dã sử. Sách của ông đã từng được nhiều thế hệ sinh viên, học sinh sử dụng trong chương trình giáo dục tại học đường và cũng đã được rất nhiều thế hệ giáo sư dùng làm sách giáo khoa cho các bậc trung học. Chính sử không phải luôn luôn là đáng tin cũng như dã sử không phải luôn luôn là cái đáng ngờ vực, là do tưởng tư�! ��ng bịa ra. Muốn sử dụng cả hai loại này, người viết sử cần áp dụng phương pháp sử học nghĩa là cần phải "cẩn án" tài liệu hay "án khảo chứng tích" [18].

Học giả Trần Trọng Kim khi viết bộ Việt Nam Sử Lược cũng đã nói rõ cách sử dụng tài liệu khi viết tác phẩm này: "Soạn giả đã cố sức xem-xét và góp-nhặt những sự ghi-chép ở các sách chữ nho và chữ pháp, hoặc những chuyện rải rác ở các dã-sử, rồi đem trích bỏ những sự huyền-hoặc đi mà soạn ra bộ sách này, cốt để người đồng-bang ta biết được chuyện nước nhà mà không tin nhảm những sự huyễn-hoặc. Thời-đại nào nhân-vật ấy và tư-tưởng ấy, soạn-giả cứ bình-tĩnh cố theo cho đúng sự thực." [19]

Chịu ảnh hưởng của nền sử học truyền thống Trung Hoa, nền sử học Việt Nam căn cứ theo nhiệm vụ được triều đình qui định đề phân biệt chính sử với dã sử. Một số loại tài liệu sau đây được coi như các môn trợ lực cho các bộ chính sử.

Các văn thư thù tiếp, ngoại giao, công hàm, quan hàm: Các văn thư chính thức của triều đình trong thông tin, thông báo, thù tiếp hay ngoại giao v.v… thí dụ Quân trung từ mệnh tập gồm các thư từ giao dịch giữa  Lê Lợi với quân Minh trong thời gian chiến tranh Hoa-Việt (1417-1427) do Nguyễn Trãi viết, Bình Ngô đại cáo cũng do Nguyễn Trãi soạn, Văn tế tướng sĩ trận vong của Nguyễn Văn Thành soạn [20] sau khi Nguyễn Ánh chiến thắng Tây Sơn cũng cung cấp rất nhiều chất liệu bổ ích trong việc xây dựng lại thời sự quá khứ. Tuy nhiên vì không chắt lọc được sử tính trong một số tác phẩm văn chương Việt Nam khi đưa vào sử dụng cho nên điều này đã khiến cho một số tác giả của ta trước đây  không phân biệt được đâu là văn chương, đâu là lịch sử. Tình trạng đó đã dẫn người đọc đi vào chỗ lầm lạc từ chuyện giả thành chuyện thật, từ chuyện hư cấu trở thành chân lý muôn đời. [21] Trường hợp nhà sư Pháp Thuận đối đáp với sứ nhà Tống là Lý Giác năm 987 trong một bài thơ làm chung có thể coi là một giai thoại văn chương, nhưng nếu ý nghĩa lịch sử của nó được xác minh qua thẩm định, cân nhắc thì cũng có thể  có khả năng giúp ích cho việc hiểu thêm chính sử trong giai đoạn lúc bấy giờ. Toàn Thư chép rằng: "Nhà Tống lại sai Lý Giác sang. Khi Giác đến chùa Sách Giang, vua sai pháp sư tên là Thuận giả làm người coi sông ra đón. Giác rất thích nói chuyện văn thơ. Lúc ấy nhân có hai con ngỗng lội trên mặt nước, Giác vui ngâm rằng:

            Nga nga lưỡng nga nga,

            Ngưỡng diện hướng thiên nha.

            (Ngỗng ngỗng hai con ngỗng,

            Ngửa mặt nhìn chân trời)

Pháp sư đương cầm chèo, theo vần làm nối đưa cho Giác xem:

            Bạch mao phô lục thủy,

            Hồng trạo bãi thanh ba.

            (Nước lục phô lông trắng

            Chèo hồng sóng xanh bơi)." [22]

Bài thơ trên đây được biết chính là bài Vịnh nga của Lạc Tân Vương mấy trăm năm về trước mà đây "chỉ là trí nhớ và kiến thức về học thuật thi văn Trung quốc đem ra đối đáp… đây vừa là cuộc đấu trí ngoại giao, vừa là một sáng tạo thù ứng mang tính văn học trong một không gian mới và ở thời điểm có tính quyết định về vận mệnh của một dân tộc." [23]

Sự suy luận trong phương pháp sử học cho phép chúng ta đặt lại tính xác thực trong cách thù tiếp ngoại giao giữa quốc gia này với quốc gia khác. Ở đây tính đơn giản của lễ nghi thù tiếp một vị sứ giả ngoại quốc, ngôn từ trao đổi, địa điểm tiếp xúc cho phép tồn tại nhiều câu hỏi mà sử học cần trả lời.

Bi ký: Tức là các bài văn bia đặt ở lăng tẩm hay đền đài, lăng mộ của người đã chết thuộc dòng vua, quan hay dân dã như Lam sơn Vĩnh lăng thần đạo bi ký do Nguyễn Trãi soạn nói về tiểu sử của Lê Lợi, Khiêm cung ký do vua Tự Đức soạn [24]. Đa số các bài văn bia này, ngoài những lời xưng tụng thường lệ theo từng cấp bậc, phẩm tiết con người, những phần viết về hành trạng cá nhân như ngày sinh, nơi sinh, tên cha mẹ, anh em, ngày chết, nơi chết, lý do, tuổi tác, chức vụ, cấp bậc, diễn tiến tổng quát của cuộc đời v.v… hầu hết đều là những sự kiện trung thực, ít khi có sự dối trá, thiếu trung thực xen vào bên trong. Vì đây là những tài liệu công khai hóa bên ngoài mà mục đích thường là để tán tụng, phô diễn công đức người đã khuất cho nên gia đình con cháu cũng phải nói điều chân thật để tránh sự xoi bói, mỉa mai của người khác. Tuy nhiên, với con mắt người viết sử, tất cả tư liệu đó cũng cần phải được xét duyệt cẩn thận trước khi dùng.

Ngành phổ hệ học (généalogie), theo giáo sư Nguyễn Thế Anh "nghiên cứu thế hệ, tổ tiên, dòng dõi, gia đình của các cá nhân. Quan niệm theo nghĩa hẹp, phổ hệ học sẽ chỉ chú trọng đến ngày sinh, ngày cưới, và ngày chết của mỗi cá nhân để đặt cá nhân ấy vào trong gia tộc của họ, cùng với ngày sinh của các con cái của họ sẽ vĩnh truyền dòng dõi. Nhưng ngay ở trình độ này phổ hệ học đã cung hiến cho sử gia nhiều hiểu biết quý giá: đối với những giai đoạn lịch sử xưa, các gia phả là những tài liệu duy nhất cho chúng ta những chi tiết chính xác về tỷ suất hôn nhân, mắn suất, tử suất, tuổi sống trung bình."  [25]

Các loại tư liệu sau đây thuộc về ngành phổ hệ học:

Ngọc điệp hay ngọc phả: Điệp hay phả (pho) là sổ sách ghi chép lịch sử phát tích của các thế hệ dòng dõi của họ nhà vua vốn là những tài liệu quý báu và trung thực giúp cho ngành chính sử tham khảo khi viết về lịch sử hoàng tộc thí dụ Hoàng Lê ngọc phả, hoặc như gần đây có Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả. Ngọc điệp hay ngọc phả là sách viết về phổ hệ bắt chước phả điệp (pudie), hệ phả (xipu) hay thế biểu (shibiao) của Trung quốc. Chính Tư Mã Thiên khi viết Sử Ký, cũng đã sử dụng các phả điệp đời tiên Tần và các hệ phả thời Chiến quốc để viết các chương về bản kỷ và dòng dõi của các nhà cầm quyền trước kia như Tam đại thế biểu, Thập nhị chư tộc niên biểu, Thế gia. Nhà Tống đã có thành lập Ngọc điệp sở để thu thập tư liệu nhằm viết loại ngọc điệp. Đời nhà Thanh, có thành lập Ngọc điệp quán  để viết Tông thất ngọc điệp chia ra từng thời kỳ 10 năm bắt đầu từ năm 1661. Ngành gia phả (jiapu) hay tộc phả (zupu) cũng theo đó mà phát triển từ thời nhà Hán đến nhà Đường rồi thời Bắc Tống. Nhà Thanh cũng khuyến khích việc biên chép gia phả hay tộc phả. Gia phả chính là nguồn tài liệu căn bản để viết lịch sử gia đình, tiểu sử nhân vật, lịch sử địa phương  và nghiên cứu về nhân khẩu học. Trong cuộc cách mạng văn hóa dưới thời Mao Trạch Đông nhiều tài liệu về gia phả bị tiêu hủy [26].

Gia phả: Gia phả hay tộc phả ghi lại tiểu sử, hành trạng của một nhân vật hay các thành viên của một gia đình để lưu lại cho các thế hệ con cháu mai sau. Gia phả thường được ghi lại trong những gia đình có học và trước đây thường ghi bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm. Gia phả tại Việt Nam đã có từ lâu nhưng cũng thật khó để xác nhận ngành biên soạn gia phả xuất phát vào thời điểm nào. Trước năm 1975, ở miền Nam cũng đã có phong trào nghiên cứu lại các vấn đề gia phả và vấn đề đó đã được tác giả Dã Lan Nguyễn Đức Dụ viết trong cuốn Một lối chép gia phả thật đơn giản, bản in ronéo năm 1973 tại Sài-gòn. Cách thức viết một quyển gia phả cũng có tính truyền thống nghĩa là được duy trì từ đời này sang đời khác. Gia phả ở Việt Nam đã có từ lâu tùy theo từng danh gia vọng tộc mà sự biên chép có đôi chút khác biệt. Nhờ gia phả mà chúng ta có thể biết thêm về các sự kiện lịch sử hoặc dựa vào gia phả mà người ta có thể giải quyết hoặc bổ túc được những điều mà đôi khi chính sử không biết. Cũng theo giáo sư Nguyễn Thế Anh "trong một vài trường hợp, sự tham khảo một số gia phả đã cung hiến những hiểu biết quí giá về lịch sử xã hội và kinh tế" [27]

Có thể nói hầu hết các gia đình lớn tại Việt Nam đều có để lại gia phả mà theo tài liệu ghi nhận được chúng ta có thể kể một số điển hình như sau:

Về mặt sử học, dòng tộc của sử gia Lê Văn Hưu còn lưu lại cuốn gia phả có tên Lê Thị Gia Phả, gồm 3 quyển không ghi rõ người soạn và hiện nay do bà Lê Thị Huê giữ. Gia phả chép từ đời khởi thủy của dòng họ Lê là Trấn quốc bộc xạ Lê Lương, thời Đinh Tiên Hoàng cho đến các đời gần đây, cả thảy hơn 20 đời. Lê Văn Hưu thuộc đời thứ bảy và bản gia phả này góp phần làm sáng tỏ quê hương, dòng họ và tiểu sử của ông. Cũng nhờ vào gia phả mà dòng tộc của thi hào Nguyễn Du đã được nghiên cứu khá kỹ càng trong một tác phẩm mới xuất bản gần đây, tất cả đã dọi thêm ánh sáng ít nhiều vào các sự kiện lịch sử và văn học [28].

Tại Quảng ngãi, một danh gia vọng tộc từng góp nhiều công sức trong việc xây dựng sơn phòng Nghĩa Định là dòng tộc của cụ Nguyễn Tấn (1820-1871) vốn là Tiễu phủ sứ dưới triều vua Tự Đức, đến đời con là Diên-Lộc Quận-Công Nguyễn Thân cũng đã để lại truyền thống biên soạn gia phả bằng cách "đời con viết tiểu sử đời cha, cháu viết tiểu sử của con" như vậy mà truyền lại sự nghiệp trong gia tộc, gia đình với bộ "Thạch-Trụ Nguyễn Công Thị Gia Phả" do Nguyễn Tấn khởi viết từ năm Tự Đức thứ 11 tức năm 1858 được kế tục từ đó cho đến bây giờ .[29]

Tại Huế là nơi các vua chúa nhà Nguyễn đóng kinh đô từ thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng cho đến thời vua Bảo Đại, ngoài hoàng tộc ra mà lịch sử triều đại nói chung còn để lại trong các bộ sử lớn của quốc sử quán và gần đây trong tập Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả (1995), Huế còn là nơi phát tích rất nhiều dòng tộc lớn với nhiều tư liệu gia phả, tộc phả còn để lại như các dòng họ Hà Thúc, Thân Trọng, Hồ Đắc, Nguyễn Khoa, Phạm Đăng v.v… cũng giúp ích rất nhiều cho công việc biên soạn lịch sử nước nhà.

Ở Bình Định, gia phả của dòng họ Lê Đại Cang soạn năm Minh Mạng thứ 17 (1836) là tập Lê Thị Gia Phả, cho biết Lê Công Miễn là một danh sĩ ở Quy Nhơn, tham gia phong trào Tây Sơn làm đến Thượng Thư bộ Binh dưới triều Quang Toản, có soạn một bộ luật hình của triều Tây sơn mà sử sách không ghi chép [30].

Ở Việt Nam, việc chép gia phả thường phổ biến trong các gia đình có theo đòi Nho học nên thường viết bằng chữ Hán. Đến khi chế độ khoa cử cũ bị bãi bỏ, đa số thanh niên theo tây học cho nên việc ghi chép gia phả phần nhiều bị bỏ vì rất  ít người chịu học chữ Hán và đọc hiểu chữ Hán trong gia phả.

Các sổ địa bạ, điền bạ: Đây là một trong những nguồn tư liệu rất quý giá để tìm hiểu về chế độ xã thôn và nông nghiệp nước ta. Theo công trình nghiên cứu của một số tác giả như Nguyễn Đình Đầu và Phan Huy Lê, lưu trữ triều Nguyễn còn để lại khoảng 10.044 tập địa bạ. Địa bạ là sổ mô tả và ghi nhận quyền sở hữu từng mảnh ruộng đất, còn Điền bạ chỉ là sổ tính thuế. Địa bạ làm một lần khi đo đạc, Điền bạ thì mỗi năm làm một lần [31]. Từ thời Lý, việc tiến hành lập địa bạ đã được tổ chức và gọi là điền tịch. Dưới các triều đình Lê, Nguyễn, việc lập địa bạ được tổ chức chu đáo, chặt chẽ. Đây là những tư liệu chính thức của nhà nước và đã giúp rất nhiều trong việc phục hoạt khuôn mặt xã hội nước ta qua từng giai đoạn lịch sử, thí dụ qua tài liệu địa bạ, người ta biết được tình trạng công bằng trong việc cha mẹ để gia tài, điền sản lại cho con trai, con gái nghĩa là chia đồng đều cho cả nam lẫn nữ, chia đều đến từng phân ruộng đất, chỉ trừ một sở làm ruộng hương hỏa để cho con trưởng, hoặc phụ nữ là sở hữu chủ ruộng đất chiếm con số tỉ lệ khá cao. [32]

Các loại thần tích, thần phả: Là những tư liệu ghi lại sự tích, lịch sử, hành trạng các nhân vật lich sử địa phương, miền với những giai thoại, chuyện kể, lời đồn có liên quan đến họ qua những hình ảnh, hành vi đã được mọi người truyền tụng mang tính cách siêu nhiên, thần bí, tô điểm cho sự siêu phàm của nhân vật được nhắc tới.

Các sổ hộ tịch hàng xứ (registres paroissiaux) là nguồn tư liệu giúp tạo mối tương quan đắc lực giữa nhân khẩu học và sử học. Tại Pháp, Trung tâm Nghiên cứu Nhân khẩu học lịch sử đã sử dụng những sổ hộ tịch hàng xứ, với phương pháp sử, để thiết lập một tiêu chuẩn nhân khẩu cổ điển, mà đặc điểm là cả sinh suất, tử suất và mắn suất đều rất cao. Một nhà phổ hệ học Hoa Kỳ, Val D. Greenwood trong tác phẩm The Researcher's guide to American Genealogy cũng đã đi vào nghiên cứu các loại tư liệu mà ông gọi là Church records (Các tư liệu Giáo hội) để mở ra các phương cách tiếp cận với sự thật trong công việc biên soạn lịch sử và đã cung cấp một cái nhìn khá thấu đáo vào ngành học này [33]. Tại Việt Nam các sổ bộ giáo xứ như sổ rửa tội, sổ hôn phối, sổ tang ở những giáo xứ Công giáo cũng giúp chứng minh tính trung thực của ngày sinh, ngày chết của tiểu sử các nhân vật. Thí dụ về nhân vật Ngô Đình Khả, thân sinh của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, "sổ bộ giáo xứ Phủ cam năm 1887, tờ 27, số thứ tự 25, thấy ghi: "Năm 1887, ngày 25 tháng Hai… Micae Khả con của Giacobê Niêm và Ursula Khoa ở Phủ Cam, và Mađalêna Chĩu, con gái của Micae Quê và Agnatia Quy, ở họ Phủ Cam…" (Chữ ký cha sở: Eugêne Allys). Ông lập gia thất với bà Mađalêna Chĩu, nhưng chẳng may bà Chĩu sớm qua đời. Tháng 3- 1889, ông tục huyền với bà Anna Phạm Thị Thân, con ông Phaolô Huyên và Anna Bùi người gốc làng Vân Dương, tổng An Cựu, huyện Hương Thủy, lập nghiệp ở Phủ Cam. Theo sổ bộ khai tử năm 1923, số thứ tự 237, hồ sơ lưu trữ của giáo xứ Phủ Cam, thấy ghi như sau: "Năm Thiên Chúa 1923, ngày 18 tháng Hai, Micae Ngô Đình Khả, ông Thượng, đã về với Chúa, năm sinh 1857, an táng tại Phủ Cam." (Chữ ký cha sở: T.a.Stoeffler)" [34] . Thiết tưởng những loại tài liệu như vậy chắc chắn sẽ cung cấp cho người viết sử những chứng tích rõ ràng, chính xác trong việc lập các bản tiểu sử, hành trạng nhân vật.

3.-  Thử phân tích một trường hợp sử dụng tài liệu dã sử .

Trường hợp mà chúng tôi đưa ra đây để thử phân tích về việc sử dụng tài liệu dã sử đó là việc khởi nghĩa của anh em Tây sơn. Trong cuốn sách có tên Những kỳ án trong Việt sử, nhà xuất bản Non Nước, Canada, 2000, ở trang 106, tác giả Trần Gia Phụng có viết: "Theo sách Liệt truyện, khi Nguyễn Nhạc làm biện lại Vân đồn, ông tiêu lạm tiền thuế thu được, bị quan trên thúc đòi, bèn bỏ trốn vào núi nổi loạn. Viết điều nầy, có thể Liệt truyện muốn chứng tỏ Nguyễn Nhạc nổi dậy vì hoàn cảnh thúc bách, do việc lạm tiêu tiền thuế, chứ không phải vì ông chống đối chính quyền lúc bấy giờ. Liệt truyện hoàn toàn không nói đến lý do vì sao Nguyễn Nhạc thâm lạm tiền thuế. Sách Dã sử (bằng chữ Nho) thêm vào một chi tiết mới: đó là biện Nhạc đánh bạc thua hết tiền thuế thu được nên bỏ vào núi nổi loạn. [8] Nếu quả thật Nguyễn Nhạc ham mê cờ bạc để đến nỗi lạm tiêu tiền thuế thì sách Liệt truyện của nhà Nguyễn đã viết rồi, cần gì phải đến sách Dã sử." Ở một đoạn dưới, cũng trang 106, tác giả Trần Gia Phụng có ghi thêm: "Ngoài chức biện lại đi thu thuế ở Vân Đồn, Nguyễn Nhạc là một tay buôn bán với người miền núi, chính yếu là buôn trầu, nên thường chi dụng vốn liếng để thâu nguồn hàng. Biết đâu khi kẹt vốn, Nguyễn Nhạc có thể tạm mượn tiền công quỹ để giải quyết việc buôn bán, mà chưa kịp trả lại khi quan trên hỏi đến, nên bị gán cho là thâm lạm công quỹ? Ngang đây, còn có một câu hỏi cần được đặt ra: Nguyễn Nhạc thâm lạm tiền công quỹ nên khởi nghĩa, hay vì nhu cầu khởi nghĩa! , mua sắm khí giới mà Nguyễn Nhạc thâm lạm công quỹ?" Sau đó, ở trang 107, tác giả Trần Gia Phụng cho biết: "Vậy lý do chính đưa đến cuộc khởi nghĩa của phong trào Tây Sơn bắt nguồn từ hoàn cảnh xã hội bi đát của Đàng trong lúc bấy giờ, do chính sách tàn bạo của quyền thần Trương Phúc Loan, chứ không phải vì chuyện đánh bạc như Dã sử đã viết. Rất tiếc là chi tiết "Nguyễn Nhạc đánh bạc" trong Dã sử đã được nhiều sách truyền nhau ghi lại lâu ngày thành như sự kiện có thật để giải thích về nguyên nhân khởi nghĩa của anh em Tây Sơn." [11] Những chú thích số 8 và 11 trong ngoặc đứng là của tác giả Trần Gia Phụng. Trong chú thích số 8 (trang 123) thấy ghi bằng chữ nhỏ: "Dã sử, vô danh, bản chữ Nho chép tay, Nguyễn Phương trích dẫn, sđd. tr. 29, phần chú thích." Chú thích số 11 (cũng trang 123) ghi: "Trần Trọng Kim, Hoa Bằng, Phan Khoang, Nguyễn Phương đều theo thuyết nầy. Đành rằng một biến cố lịch sử trọng đại không nhất thiết phải bắt nguồn từ một nguyên nhân chính đáng, đôi khi một biến cố lịch sử chỉ do những yếu tố rất tình cờ đưa đến; nhưng ở đây, chuyện Nguyễn Nhạc đánh bạc do Dã sử ghi lại, mà dã sử chỉ là những câu chuyện truyền thuyết kể lại. Người viết chuyện dã sử hay giai thoại có thể tự do phóng bút viết thêm thắt tùy trí tưởng tượng của họ mà không thể bị phê bình vì đó là chuyện dã sử mà thôi."

Trong cuốn sách nhan đề Những câu chuyện Việt sử, Nhà xuất bản Non Nước Toronto, Canada, 1997, tác giả Trần Gia Phụng cũng đã có nêu vấn đề như trên trong bài viết Ngọc ẩn trong đá (trang 203- 224) với chú thích số 22 mà nội dung tương tự chú thích số 11 nói trên, tuy trong danh sách không có kê tên của tác giả Hoa Bằng.

Sự thẩm định những công trình nghiên cứu sử học của tác giả Trần Gia Phụng đã được giới nghiên cứu và bạn đọc đánh giá. Ở đây chúng tôi trình bày một vài ý kiến góp cùng tác giả về vấn đề nêu ra ở trên có liên hệ đến cách trưng dẫn, phê phán và sử dụng tài liệu, nhất là tài liệu dã sử.      

Trước hết chúng tôi quan niệm rằng không phải hầu hết dã sử đều là những câu chuyện truyền thuyết kể lại. Dã sử có những phần hàm chứa các chuyện hoang tưởng nhưng cũng có rất nhiều chuyện là sự thật. Vả lại như chúng tôi đã trình bày nhiều lần ở trên về các tư liệu tuy thuộc nguồn dã sử tuy nhiên được viết rất cẩn trọng, phản ảnh sự thật có thể kiểm chứng một cách rất dễ dàng.

Về việc Nguyễn Nhạc vào rừng.- Tác giả Trần Gia Phụng viết: "Theo sách Liệt Truyện, khi Nguyễn Nhạc làm biện lại Vân Đồn, ông tiêu lạm tiền thuế thu được, bị quan trên thúc đòi, bèn bỏ vào núi nổi loạn…" Cách trưng dẫn hoặc tóm ý Liệt Truyện như vậy là quá đơn giản, không trung thực với nội dung của sử liệu. Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện Sơ Tập, (tức Liệt Truyện) quyển 30, tờ 1a chép : "Hậu Nhạc vi Vân Đồn tuần biện lại, tiêu phụ thuế tiền, đốc trưng Đằng cấu truy thậm cấp, toại nhập sơn vi đạo." Dịch là: Sau Nhạc làm biện lại ở tuần Vân Đồn, lạm tiêu tiền thuế, đốc trưng Đằng đòi trả ráo riết, bèn vào núi làm kẻ trộm. Như vậy rõ ràng sách Liệt Truyện có kê tên người đi đòi nợ Nguyễn Nhạc là đốc trưng Đằng với tên và chức vụ hẳn hoi chứ không đơn giản chỉ là "quan trên", cũng như Liệt Truyện không hề viết rằng "Nguyễn Nhạc bèn bỏ vào núi nổi loạn" mà viết là "vào núi làm kẻ trộm". Dĩ nhiên chuyện làm kẻ trộm cũng phải khác với chuyện nổi loạn lúc buổi đầu của khởi nghĩa Tây Sơn. Các tác giả như Phan Khoang trong Việt Sử Xứ Đàng Trong, và Nguyễn Phương trong Việt Nam Thời Bành Trướng: Tây Sơn đều có đọc đến đoạn trên đây của Liệt Truyện và đều hiểu câu viết "toại nhập sơn vi đạo""bèn vào núi làm kẻ trộm". [35] Chính Phan Khoang và Tạ Chí Đại Trường cũng hiểu hai chữ "vi đạo""làm nghề trộm cướp." [36] Nổi loạn thì nói lên ý nghĩa chống đối về chính trị, phá bỏ phép! tắc của nhà nước vốn được tuân thủ lâu nay, còn làm kẻ trộm là phơi bày ý nghĩa của một hành vi liên hệ tới tệ trạng xã hội.

Về việc Nguyễn Nhạc đánh bạc.- Đây là điểm mà tác giả Trần Gia Phụng phê bình  các nhà viết sử trước đây như Trần Trọng Kim, Hoa Bằng, Phan Khoang, Nguyễn Phương là "Rất tiếc chi  tiết 'Nguyễn Nhạc đánh bạc' trong Dã sử đã được nhiều sách truyền nhau ghi lại lâu ngày thành như sự kiện có thật để giải thích về nguyên nhân khởi nghĩa của anh em Tây Sơn" (Những câu chuyện Việt sử, tr. 212; Những kỳ án trong Việt sử, tr. 107). Chúng tôi đã thử kiểm tra lại các cuốn sách của các tác giả nói trên và thấy vấn đề có những phản ảnh khác nhau.

Trước hết, tác giả Phan Khoang trong cuốn Việt sử xứ Đàng Trong không hề nhắc đến chuyện Nguyễn Nhạc đánh bạc. [37]

Trong mục Sách báo tham khảo của cuốn Quang Trung Nguyễn Huệ, ông Hoa Bằng có ghi tên một số sách như Lê kỷ (dã sử), Lê kỷ tục biên (dã sử), Lê triều dã sử, Lê triều dã sử nhất ký  [38] chính là những tư liệu để tác giả này viết về chuyện thua bạc của Nguyễn Nhạc.

Tác giả Trần Trọng Kim viết về Nguyễn Nhạc rằng: "Nguyễn Nhạc trước làm biện-lại ở Vân-đồn, cho nên sau người ta thường gọi là biện Nhạc. Nhưng vì tính hay đánh bạc, tiêu mất cả tiền thuế, sợ phải tội, bỏ đi vào rừng làm giặc." [39] Chúng ta cũng thấy được tính cẩn trọng của học giả Trần Trọng Kim khi nói về cách sử dụng tài liệu chính sử và dã sử của ông để viết cuốn Việt Nam Sử Lược, cho nên khi đưa ra việc Nhạc là người có tính hay đánh bạc, chắc chắn sử gia Trần Trọng Kim có nhiều tư liệu cụ thể chứng minh việc đó.

Về chuyện Nguyễn Nhạc đánh bạc, chúng tôi thấy sử gia Nguyễn Phương, trong cuốn Việt Nam Thời Bành Trướng: Tây Sơn,  đã rất cẩn thận ghi ở cước chú số 2: "Về chỗ Nhạc vào rừng nầy, Liệt truyện chép: Sau, Nhạc làm tuần biện ở Vân đồn, tiêu lạm tiền thuế. Đốc trưng Đằng đòi hỏi gắt gao, nên Nhạc vào núi làm kẻ trộm. Hiến gọi Nhạc đến nói riêng rằng: "Sấm có câu: Tây khởi nghĩa, Bắc thâu công. Mầy là người Tây sơn, hãy gắng lên". Nhạc cho là phải và mầng thầm. (q.30, 1b). Theo đó, không có nói đến việc Nhạc đánh bạc. Nhưng chi tiết đánh bạc được nêu lên trong Dã sử với mấy chữ "đỗ phụ quan tiền". Dầu sao, chúng ta thấy rõ một điều là Nhạc vào rừng là vì tình thế bắt buộc, chứ không phải là chỉ vì có chí lớn muốn dẹp gian thần để giúp nước mà thôi, như ông Lê Dư đã chủ trương. Trong Nam phong (số 97, trang 12) Lê Dư viết: "Xưa kia Nhạc làm biện ở Vân đồn, thấy khi ấy trong đất Thuận Quảng phải Trương phúc Loan chuyên quyền chiếm cứ, cả gan làm càn, dân tình oán giận. Nhạc muốn nhân thời ấy nổi lên, mới thu lấy món tiền công khoản vào thủ hiểm trong núi". [40]

Khi đưa chuyện Nguyễn Nhạc đánh bạc vào trong tác phẩm kể trên của mình, có lẽ sử gia Nguyễn Phương đã không "truyền nhau", nghĩa là bắt chước nhau để kể lại một câu chuyện đã được các sách viết trước ông nhắc tới, nhưng sử dụng dã sử, cũng là nguồn sử liệu đầu tay, để viết về chuyện Nguyễn Nhạc và với sự phân tích cẩn thận các tư liệu có nói tới việc Nguyễn Nhạc vào rừng. Vả lại, sử gia Nguyễn Phương là người hay đặt vấn đề [41] cho nên trong biến cố Nguyễn Nhạc vào rừng, tác giả Nguyễn Phương cũng đã có đặt vấn đề nghĩa là làm một cuộc đối chiếu lại giữa các nguồn sử liệu với nhau, và nhất là cũng muốn bảo lưu một nguồn dư luận trong dân gian có lẽ sát đúng với thực tế về tính hay đánh bạc của Nguyễn Nhạc. Đánh bạc dĩ nhiên có khi thắng khi thua, vì là cuộc đấu trí và tùy rủi may chứ không thể nói dứt khoát như Tạ Chí Đại Trường rằng "Cho nên, đánh bạc, Nhạc nào có dễ gì để cho người ta lột!" [42]. Vấn đề tác giả Trần Gia Phụng nêu lên câu hỏi là phải chăng Nguyễn Nhạc đã dùng số tiền công quỹ kia để mua sắm khí giới khởi nghĩa? Câu trả lời có lẽ là không vì nhiều tư liệu để lại cho biết lúc ban đầu khởi nghĩa, quân của Tây Sơn trang bị vũ khí tầm thường, chỉ toàn giáo mác, cung tên, cũng có ít súng tay. [43] Nếu tiền lạm thuế để sử dụng vào việc mua vũ khí là một số tiền lớn thì tất khi khởi nghĩa Tây sơn phải có những súng ống mua của phương Tây, mà sự việc ấy không thấy có ghi lại.

Khi viết lại lịch sử, có những chuyện Liệt Truyện biết nhưng cũng có những chuyện Liệt Truyện không biết. Chính vì thế mà khi viết sử, sử gia ngoài việc tận dụng tài liệu chính sử, còn phải để ý nghiên cứu các tài liệu dã sử, và với sự phân tích cẩn trọng các tư liệu ấy khi dùng. Trong trường hợp này, trường hợp về cuộc khởi nghĩa của Tây sơn, chính dã sử đã cung cấp rất nhiều tư liệu cho các sử gia để họ có thể tái tạo lại những trang sử trung thực của triều đại này hơn.                                                                                                    

CHÚ THÍCH:

1.- Bài thứ nhất với tiêu đề "Từ chính sử đến dã sử…" có mục đích giới thiệu một số quan điểm về đường hướng biên soạn lịch sử trong thời đại quân chủ ở nước ta trước đây, cùng với khuynh hướng biên soạn lịch sử trong dân gian.

2.- Sử học chính thống cung cấp những tác phẩm chính sử như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục mà những phần mở đầu cũng ghi lại những câu chuyện truyền thuyết, hoang đường của thời kỳ lập quốc. Xin đọc Nguyễn Phương, Việt Nam Thời Khai Sinh, Phòng Nghiên Cứu Sử, Viện Đại Học Huế, 1965.

3.- Endymion Wilkinson, Chinese History, A Manual, Harvard University Asia Center, Cambridge (Massachusetts) and London, 1998, trang 481.

4.- Nguyễn Thế Anh, Nhập Môn Phương Pháp Sử Học, Sài Gòn, 1974, tr. 4.

5.- Trên tạp chí Bách Khoa, in tại Sài gòn, số 258 ngày 1-10-1967, tác giả Nguyễn Phương đã có bài "Gốc tiếng sử ký" để đính chính quan điểm của giáo sư Phạm Cao Dương cho rằng chữ sử ký vốn là danh từ riêng, nguyên là tên một tác phẩm sử học của người Trung hoa, cuốn Sử Ký của Tư Mã Thiên, được dùng nhiều mà thành ra danh từ chung.

6.- Nhữ Thành, Sử Ký Tư Mã Thiên, Nxb. Văn Học, Hà Nội, 1988, tr. 6.

7.- Trung thư lệnh: chức quan coi việc giấy tờ, văn thư cho nhà vua.

8.- Vương Tuệ Mẫn (chủ biên), 100 Danh Nhân Có Ảnh Hưởng Đến Lịch Sử Trung Quốc (nguyên bản chữ Hán), Tiến sĩ Nguyễn Văn Dương dịch, Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, 2002, trang 279.

9.- Nguyễn Văn Dương, Sđd, tr. 284.

10.- Văn Cảnh: Tức là Văn đế (179-156 tr. C.N.) và Cảnh đế (156-140 tr. C.N.), vua thứ 4 và thứ 5 đời Tây Hán.

11.- Nguyễn Văn Dương, Sđd, tr. 285.

12.- Nguyễn Văn Dương, Sđd, tr. 286.

13.- E. Wilkinson, Sđd, tr. 482.

14.- E. Wilkinson, Sđd, tr. 482.

15.- Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Bộ Giáo Dục, Trung Tâm Học Liệu xuất bản (bản in lại của Đại Nam), tr. 278.

16.- Suétone:  Tên viết theo chữ La-tinh là Caius Suetonius Tranquillus, sử gia La mã, sinh ở Ostie hay Hippone (khoảng 69 sau C.N.- 125). Ông là tác giả Cuộc đời của mười hai vị Xê-da.

17.- Nguyễn Thế Anh, Sđd, tr. 13.

18.- Nguyễn Phương, Phương Pháp Sử Học, Nxb. Sao Mai, Huế, 1964, tr. 81.

19.- Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Nxb. Tân Việt, bản in lần thứ 7, tr. XII.

20.- Theo Hoàng Xuân Hãn, bài Văn tế trận vong chiến sĩ là do Nguyễn Huy Lãng (Lượng) làm chứ không phải Nguyễn Văn Thành. Xin xem La-Sơn Yên-Hồ Hoàng Xuân Hãn, Nxb. Giáo Dục, 1998, tập I, tr. 437.

21.- Nguyễn Phương, Sđd, tr. 112.

22.- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tập I, Nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nợi, 1998, tr. 224.

23.- Võ Văn Ái, Nhân hai bài thơ của Thiền sư Pháp Thuận, nghĩ đến Hình ảnh Văn hóa và Văn hóa hình ảnh (Tham luận tại Đại hội Văn hóa Phật giáo Việt Nam San Diego, 4.1.2003).

24.- Thường gọi là Bia Vĩnh Lăng, do Nguyễn Trãi viết về tiểu sử và công nghiệp đánh đuổi giặc Minh của Lê Lợi. Bài Khiêm cung ký do chính tay vua Tự Đức soạn có in trong Đại Nam Thực Lục và dịch ra tiếng Pháp trong Bulletin Des Amis Du Vieux Hué (BAVH).

25.- Nguyễn Thế Anh, Sđd, tr. 30.

26.- E. Wilkinson, Sđd, tr. 112.

27.- Nguyễn Thế Anh, Sđd, tr. 63.

28.- Phan Huy Lê, Tìm Về Cội Nguồn, Tập I, Nxb. Thế Giới, Hà Nội, 1998, tr. 137. Đặng Cao Ruyên, Bể dâu trong dòng họ Nguyễn Du, Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ, 2002.

29.- Nguyễn Đức Cung, Lịch sử vùng cao qua Vũ Man Tạp Lục Thư, Nxb. Nhật Lệ, Philadelphia, 1998, tr. 66.

30.- Phan Huy Lê, Sđd, tr. 126.

31.- Nguyễn Đình Đầu, Nghiên Cứu Địa Bạ Triều Nguyễn, Bình Định I, Nxb. TPHCM, 1996, tr. 9.

32.- Nguyễn Đình Đầu, Sđd, tr. 11.

33.- Val D. Greenwood, The researcher's guide to American Genealogy, Genealogical Publishing Co., Inc. Baltimore, 1977, tr. 358.

34.- Lê Ngọc Bích, Nhân Vật Giáo Phận Huế, Tập I, Huế 2000, tr. 109.

35.- Phan Khoang, Việt Sử Xứ Đàng Trong, bản in Xuân Thu, tr. 256.

36.- Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến Việt Nam, từ 1771- 1802, Nxb. Văn Sử Học, 1973, tr. 50.

37.- Phan Khoang, Sđd, tr. 256.

38.- Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn Huệ, bản in Đại Nam, tr. 342.

39.- Trần Trọng Kim, Sđd, tr. 345.

40.- Nguyễn Phương, Việt Nam Thời Bành Trướng: Tây Sơn, Nxb. Khai Trí, 1967, tr. 29-30.

41.- Chữ của Trần Gia Phụng. Trần Gia Phụng, Những câu chuyện Việt Sử, II,  bài Sử gia Nguyễn Phương, người đặt vấn đề, Nxb. Non Nước, Toronto, Canada, 1999, tr. 393.

42.- Tạ Chí Đại Trường, Sđd, tr. 51.

43.- Tạ Chí Đại Trường, Sđd, tr. 58.

————

Ghi chú của Goldfish:

(*): Tựa do chúng tôi tạm đặt. Rất mong tác giả miễn thứ về việc đặt tựa và ghép 2 bài viết nêu trên.

(**): Chúng tôi tạm lược bỏ một đoạn. Rất mong tác giả miễn thứ.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét