Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2013

MACD.html

Kể từ khi được Gerald Appel giới thiệu, MACD đã trở thành một trong những công cụ phân tích kỹ thuật đơn giản và tin cậy nhất. MACD được tính toán dựa trên hiệu số của hai đường trung bình động dài hạn và ngắn hạn, giá trị trả về thuộc nhóm phân tích tương quan: tương quan giữa trung bình động dài hạn và trung bình động ngắn hạn.

Chi tiết về phân tích tương quan xem: Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.

Chi tiết về trung bình động xem: Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế.

Xem trước

1. Tính toán

Về mặt tính toán MACD lấy một giá trị trung bình động của giá trong ngắn hạn trừ cho giá trị trung bình động trong dài hạn. Thông thường MACD sử dụng EMA – 12 làm trung bình động ngắn hạn và EMA – 26 làm trung bình động dài hạn và cho hiệu số trên.

Như vậy nếu MACD > 0 thì trung bình động ngắn hạn lớn hơn trung bình động dài hạn.Nếu MACD < 0 thì trung bình động dài hạn nhỏ hơn trung bình động ngắn hạn.

Đồ thị các giá trị của MACD là một máy hiển thị dao động phản ánh tương quan giữa trung bình động ngắn hạn và trung bình động dài hạn. Thông thường đồ thị này được vẽ kèm với đồ thị trung bình động EMA – 9 của chính MACD và đồ thị MACD – Histogram là hiệu số của MACD và trung bình động EMA – 9 của chính MACD. Về MACD – Histogram sẽ được nêu trong một bài khác.

2. Ý nghĩa

So với các phương pháp phân tích khác, MACD thuộc về cả hai nhóm phân tích xu thế và phân tích tương quan, MACD vừa chỉ ra xu thế của thị trường vừa xác định các tín hiệu mua và bán trên cùng một đồ thị.

Như đã biết trong bài viết về trung bình động, khoảng cách giữa trung bình động ngắn hạn và trung bình động dài hạn thể hiện xu thế tăng hoặc giảm của thị trường. Nếu trung bình động ngắn hạn lớn hơn trung bình động dài hạn thì xu thế là tăng giá và MACD có giá trị dương. Nếu giá trị MACD dương và ngày càng lớn thì xu thế thị trường tăng ngày càng mạnh, phe bò tót ngày càng thắng áp đảo. Nếu trung bình động ngắn hạn nhỏ hơn trung bình động dài hạn thì xu thế là giảm giá và MACD có giá trị âm. Nếu giá trị MACD âm và ngày càng nhỏ thì xu thế thị trường giảm ngày càng mạnh, phe gấu ngày càng thắng áp đảo. Đường trung bình của MCAD là 0 nơi mà trung bình động giá ngắn hạn gặp trung bình động giá dài hạn, tại đây bắt đầu có sự đổi chiều về xu thế của thị trường.

Ví dụ về MCAD giá cổ phiếu Công ty cổ phần Nhựa Đồng Nai – DNP

Nhấn để xem kích thước thật

Nhấn để xem kích thước thật

(Nguồn ảnh đồ thị www.vietstock.com.vn

  • Đồ thị trên tại các thời điểm số 1 và 2, đường MACD (Màu xanh) giao cắt đường zero, tại đây các đường đồ thj trung bình động EMA – 12 và EMA – 26 giao cắt nhau trên đồ thị giá.
  • Trên đồ thị MACD, đường EMA – 9 của chính MACD được vẽ trên cùng đồ thị với màu tím và MACD – Histogram được vẽ trên cùng đồ thị với các cột màu xanh dương.

3. Sử dụng

Khi sử dụng MACD cần chú ý các tín hiệu sau để phát lênh mua hoặc bán:

  • Sự giao cắt giữa MCAD và đường trung bình động EMA của chính MACD: Nếu đường MACD ở cắt đường trung bình động EMA của chính nó và đi xuống dưới đường này thì đó là tín hiệu bán ra để cắt lỗ. Nếu đường MACD cắt đường EMA của chính nó và đi lên trên đường này thì đó là tín hiệu mua vào. Sự giao cắt này được gọi là cò súng khai hỏa các tín hiệu mua và bán khác chính xác. Tuy nhiên cũng chú ý rằng khi các tín hiệu này xảy ra thì thường sự việc đã xảy ra rồi. Tuy không thể mua đáy bán đỉnh được nhưng việc bạn sớm mua vào hay bán ra ở đầu một xu thế lên giá hoặc giảm giá cũng là một món hời.
  • Sự giao cắt giữa MCAD và đường zero. Sự giao cắt này chỉ là sự khẳng định lại tăng phần chắc chắn về xu thế mà các phép phân tích khác chỉ ra. Thông thường sự giao cắt này xảy ra khá muộn với độ trễ lớn nhất là khi sử dụng MCAD với hai đường trung bình động trong 9 ngày và 26 ngày. Do đó không thể dùng sự giao cắt này làm tín hiệu để phát lệnh mua/bán.

  Các tín hiệu trên cần kết hợp với nhiều tín hiệu trên các phân tích khác để có kết quả chính xác hơn.

  • Xác định xu thế tăng hoặc giảm hoặc dập dềnh.
  • Các dấu hiện về phân kỳ âm, phân kỳ dương.
  • Ngưỡng siêu mua/siêu bán

Về các tín hiệu này đã trình bày trong 3 bài

Khi phối hợp các tín hiệu trên với nau cần nhớ đến nghịch lý của việc áp dụng phân tích kỹ thuật: Việc áp dụng và chờ đợi càng nhiều tín hiệu để tăng phần khẳng định chính xác hơn của một quyết định mua bán có thể làm tăng phần chậm trễ cho quyết định mua bán đó và ngược lại việc áp dụng quá ít tín hiệu để ra quyết định mua bán cho kịp thời cơ có thể lại kém phần chính xác. Quyết định chính xác nhất là không quyết định.

Xét ví dụ sau về giá của chứng chỉ quỹ VF1:

Nhấn để xem kích thước thật

Nhấn để xem kích thước thật

 

(Nguồn ảnh đồ thị www.vietstock.com.vn )

  • Trong giai đoạn cuối tháng 2 năm 2007, RSI đạt trên ngưỡng 50 và tiến dần đến ngưỡng siêu mua, phân kỳ dương xuất hiện và có sự giao cắt giữa MACD và đường trung bình động của chính nó tại thời điểm số (1) là tín hiệu mua vào. Từ lúc đó cho đến thời điểm số (2) (giao đoạn ngay trước và ngay sau tết), thị trường có dạng dập dềnh nhưng MACD luôn ở trên đường trung bình động EMA của chính nó vì vậy nhà đầu tư vẫn ôm chặt chứng chỉ quỹ của VF1 chờ thời.
  • Sang đầu tháng 3 giá của VF1 vẫn tăng tốt, ngưỡg siêu mua đã bị xuyên phá tại thời điểm số (2). Sang đến giữa tháng 3 tại thời điểm số (3), MACD đã giao cắt đường trung bình động EMA của chính nó và đi xuống dưới đường này, các tín hiệu trên đồ thị RSI đã phá vỡ và đi xuống dưới ngưỡng siêu mua cùng với sự xuất hiện của phân kỳ dương khẳng định đã đến lúc cần phải rút lui khỏi thị truờng.
  • Vào giữa tháng 4, tại thời điểm số (4), lúc này RSI đã phá vỡ ngưỡng siêu bán và đi lên trên giá trị này, phân kỳ dương xuất hiện cho thấy sự khởi sắc của thị trường. sự giao cắt giữa MACD và EMA của chính nó báo hiệu tín hiệu mua vào. Tuy nhiên sự giao cắt này không đảm bảo một sự chắc chắn cho những sự kiện bất ngờ xảy ra sau đó đối việc phát hành của chứng chỉ quỹ VF1 đã đẩy giá của VF1 tụt dốc.


Hãy chú ý đến các thời điểm RSI xuyên phá các ngưỡng siêu mua, siêu bán và sự giao cắt của MACD và các đường trung bình động EMA của chính nó xảy ra sau đó trên đồ thị giá của cổ phiếu của công ty Cổ phần Hàng Hải Hà Nôi (MHC).

Nhấn để xem kích thước thật

Thomas Aspray giới thiệu MACD – Histogram vào năm 1968 như một giải pháp làm giảm thiểu độ trễ của MACD. Như đã biết sự giao cắt giữa MACD và đường trung bình động EMA của chính nó là phát pháo lệnh cho các hành vi mua và bán của nhà đầu tư. Tuy nhiên nếu ngồi chờ phát pháo lệnh này thì sự việc có thể đã trễ. Vì vậy MACD – Histogram được ra nhằm mục đích dự đoán sự xuất hiện của phát pháo lệnh trước khi nó xảy ra, nhờ đó nhà đầu tư có thể ra quyết định mua/bán kịp thời hơn so với việc chờ đợi sự giao cắt giữa MACD và đường trung bình động của chính nó.

Xem trước:

1. Tính toán

Giá trị của MACD – Histogram được tính bằng hiệu của MACD và giá trị trung bình động EMA của chính MACD. Thông thường nếu chọn MACD được tính bằng hiệu hai đường trunhg bình động của giá là EMA – 12 và EMA – 26 thì giá trị trung bình động EMA của chính MACD được chọn là 9 phiên.

Đồ thị MACD – Histogram được vẽ trên cùng đồ thị với MACD dưới dạng biểu đồ hình cột. Nếu MACD vượt đường trung bình động EMA của chính nó thì MACD – Histogram dương và biểu đồ cột quay lên trên. Nếu MACD nằm dưới đường trung bình động EMA của chính nó thì MACD – Histogram âm và biểu đồ cột quay xuống dưới.

 Hình dưới là đồ thị MACD – histogram của Công ty Cổ phần Cảng Đoạn Xá (DXP) minh hoạ về đồ thị MACD – Histogram dưới dạng các cột màu xanh. Khi MACD – Histogram bằng 0 là lúc có sự giao cắt giữa MACD và trung bình động của chính nó.

Nhấn để xem kích thước thật

Nhấn để xem kích thước thật

 

(Nguồn ảnh đồ thị: www.vietstock.com.vn

2. Ý nghĩa

MACD phản ánh sự chênh lệch giữa giá trị của MACD và giá trị trung bình động EMA – 9 của chính MACD.

Nếu giá trị của MACD – histogram dương và càng lớn thể hiện phe bò tót càng thắng thế trên thị trường. Nếu giá trị MACD – histogram âm và càng nhỏ thì phe gấu càng thắng thế trên thị trường.

Việc giao cắt giữa MACD và đường trung bình động của chính nó là một hiệu lệnh cho hành vi mua vào hoặc bán ra. Tại điểm giao cắt này MACD – Histogram có giá trị 0. Bằng việc dựa vào sự tăng giảm của MACD – Histogram để dự đoán việc MACD – Histogram bằng 0 sẽ xảy ra, nhờ đó MACD – Histogram đưa ra khuyến cáo về một hành vi mua bán của nhà đầu tư nên đến sớm hơn. Kỹ thuật sử dụng để dự đoán như vậy chính là phân kỳ dương và phân kỳ âm.

Hình dưới là đồ thị MACD – histogram của Công ty Cổ phần Cảng Đoạn Xá (DXP) minh hoạ về sự xuất hiện của phân kỳ dương và âm trên MACD – Histogram sớm dự báo sự giao cắt cắt của MACD và trung bình động của chính nó.

Nhấn để xem kích thước thật

Nhấn để xem kích thước thật

 

(Nguồn ảnh đồ thị: www.vietstock.com.vn )

3. Sử dụng

Nếu đường MACD đang ở trên đường trung bình, giá cả đang lên nhưng MACD – Histogram có sự xuất hiện của phân kỳ âm thì dấu hiệu này cảnh báo về sự giao cắt của MACD với trung bình động của chính nó và sẽ thấp hơn trung bình động. Lúc này nhà đầu tư có thể ra quyết định bán ra sớm hơn việc chờ đợi sự giao cắt mới ra quyết định bán.

Nếu đường MACD đang ở dưới đường trung bình, giá cả đang xuống nhưng MACD – Histogram có sự xuất hiện của phân kỳ dương thì dấu hiệu này cảnh báo sự giao cắt của MACD và đường trung bình động EMA của chính nó và cao hơn trung bình động. Lúc này nhà đầu tư có thể ra quyết định mua vào sớm hơn là việc chờ đợi sự giao cắt mới ra quyết định mua.

Chú ý rằng việc sử dụng MACD – Histogram để phán đoán cũng như sử dụng MACD giao cắt trung bình động EMA của chính nó được sử dụng dựa trên sự phối hợp bổ trợ với các phép phân tích khác.

Ngoài ra vì MACD – Histogram dự đoán sự giao cắt của MACD nên dù có độ trễ ít hơn so với MACD nhưng tính chính xác lại kém hơn. Sử dụng một biện pháp phỏng đoán gián tiếp qua một dấu hiện dự đoán khác thì sẽ kém an toàn hơn là sử dụng phép dự đoán trực tiếp.

 Xét ví dụ về giá cổ phiếu của Công ty Cổ phần bao bì Bình Dương – HBD

 

Nhấn để xem kích thước thật

 

  • Tại khoảng thời gian số 1, có rất nhiều tín hiệu xuất hiện lần lượt tại các thời điểm khác nhau: sự giao cắt của giá và đường trung bình động SMA – 5, giá rót rất mạnh sau khi giao cắt đường này, RSI cắt ngưỡng siêu mua và đi xuống dưới, sự xuất hiện của phân kỳ âm trên MACD – Histogram và sự giao cắt của MACD với đường trung bình động của nó. Tín hiệu cuối cùng về sự giao cắt của MACD với đường trung bình động của nó là phát pháo lệnh chắc chắn nhất đòi hỏi nhà đầu tư phải rút lui gấp nếu không muốn bị thua lỗ thêm mặc dù lúc đó giá có tăng trong ngắn hạn một vài phiên. Ví dụ này cho thấy việc sớm dự báo giảm giá giúp nhà đầu tư sớm thoát khỏi thị trường hơn là chờ đợi phát pháo lệnh cuối cùng.
  • Tại khoảng thời gian số (2), có nhiều tín hiệu báo hiệu về sự tăng giá mạnh: Giá giao cắt trung bình động SMA – 5 và vượt lên rất mạnh so với trung bình động, sự xuất hiện của phân kỳ dương trên MACD – Histogram, RSI vượt lên ngưỡng siêu bán. Tuy nhiên phát pháo lệnh cuối cùng và chắc chắn nhất là sự giao cắt của MACD và trung bình động của nó đã không xảy ra và giá đã không thực sự tăng mạnh và nhanh chóng giảm. Ví dụ này điểm hình cho tính chất sớm nắm bắt thời cơ mang lại nhiều lợi nhuận hơn nhưng khả năng chính xác kém hơn.
  • Tại khoảng thời gian số (3), nhiều dấu hiệu về sự tăng giá xuất hiện: phân kỳ dương xuất hiện đồng thời trên RSI và MACD – histogram, RSI vượt lên trên ngưỡng siêu bán. Những tín hiệu này xảy ra trước phát pháo lệnh cuối cùng là sự giao cắt giữa MACD và trung bình động của chính nó. Tuy nhiên cũng cần cảnh giác với biến động dập dềnh của giá trong giai đoạn này.
  • Tại khoảng thời gian số (4): sự xuất hiện của phân kỳ âm, ngưỡng siêu mua trên RSI không còn và sự giao cắt và rớt mạnh của giá so trung bình động thúc giục sự rút lui của nhà đầu tư. Lúc  này chưa có phát pháo lệnh cuối cùng là sự giao cắt MACD và trung bình động của chính nó, giá đã có sự tăng trở lại. Giá sắp tới sẽ như thế nào? Cần phải chờ đợi những tín hiệu chắc chắn hơn hay phải rút lui cho kịp thời?


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét