Lời nói đầu
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Tôi muốn đến cùng Nguyễn Du như đến với một con người suốt đời khắc khoải về con người, về lẽ đời, về cái gì là chủ yếu trong cuộc đời Con người ấy như đang sống giữa chúng ta đây. "Khác thời đại, thương nhau, chỉ rớt nước mắt" (Dị đại tương liên không sái lệ). Nguyễn Du đã từng làm thế, ta há lại không thể đáp lại Nguyễn Du cũng bằng tình cảm ấy.
Người nào không đến được với Nguyễn Du, người ấy chắc sẽ thiệt thòi rất nhiều. Nhưng tôi muốn nói thêm rằng, bên cạnh Truyện Kiều, còn có một tòa lâu đài nữa mà bạn cần tìm hiểu để yêu Nguyễn Du hơn. Đừng vì đã có Truyện Kiều mà ra lòng "rẻ rúng" thơ chữ Hán, xem nó là phần “phụ lục”. Chắc chắn Nguyễn Du chẳng bao giờ nghĩ như thế. Vào thời Nguyễn Du, Hán học cực thịnh, Nguyễn Du làm thơ chữ Hán, trút tâm huyết, tài năng vào đó là lẽ thường. Truyện Kiều "diễn âm", "lỡ tay" mà thành kiệt tác, còn thơ chữ Hán mới đích là "sáng tác”, nên xem nó là phát ngôn chính thức của Nguyễn Du.
Chúng ta tìm hiểu thơ chữ Hán Nguyễn Du không phải như là những tài liệu bổ sung để hiểu một đôi điều về tiểu sử, về tâm sự, về thái độ của ông đối với các triều đại, mặc dù đôi lúc những chuyện đó cũng thú vị. Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa.
Khác với Truyện Kiều là một trường ca tự sự, thơ chữ Hán là những bài thơ phần lớn là ngắn, theo thể luật Đường, trong đó Nguyễn Du bộc lộ cái tôi trữ tình của mình, chất trữ tình ở đây hòa quyện với chất triết học, cho nên phần lớn thơ ở đây có thể gọi là thơ trữ tình – triết học.
Nguyễn Du nói rằng mình có một tâm sự không thể ngỏ với ai, thẳm sâu như nước sông Lam dưới chân núi Hồng (Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ – Hồng sơn sơn hạ Quế giang thâm).
Tâm sự Nguyễn Du vào thời điểm đó, lúc ông viết Thanh Hiên, thì bất quá cũng như tâm sự của bao nhiêu nhà thơ cổ của Việt
Trong “mười năm gió bụi” (thập tải phong trần) Nguyễn Du là người chạy trốn – “khứ quốc” – và “cùng đồ”. Hoàn cảnh của nhà thơ lúc bấy giờ thật muôn phần thương cảm. Nghèo túng, ăn nhờ ở đậu, đã đành, nhưng cái chính là không biết làm gì, theo đường nào, nghĩa là bế tắc. Lúc đó là “đêm tối” (hắc dạ) đối với ông. Nhà thơ đã từng cho mình là “tráng sĩ”, nhưng “tráng sĩ” bây giờ đầu đã bạc rồi:
Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên!
“Nợ áo cơm phải trả đến hình hài” (Cao Bá Quát), quả thật “sinh kế”, đời sống cho ba bà vợ và hàng chục đứa con, là một việc nan giải đối với Nguyễn Du. Thế nhưng dù sao vẫn không thể dập tắt được "tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời" mối “hùng tâm” của con người lỗi lạc. Bi kịch là ở đấy.
Nguyễn Du luôn bị ám ảnh bởi mái đầu bạc. Lúc bấy giờ, ông mới ba mươi, mà đã thấy nói đến mái đầu bạc rồi, làm sao tóc ông có thể bạc chóng thế! Trong bài Mạn hứng - bài này làm lúc ông ba mươi, ông than: "Hư danh vị phóng bạch đầu nhân". Hàng chục lần ông nhắc lại như thế, mà mái đầu bạc lại đi bên cạnh những chi tiết rất thực: “nghèo ốm không có thuốc", “tóc bạc phơ ở nhờ nhà người ta” thì la không thể không tin đó là sự thật. Nguyễn Du không "làm thơ” đâu. Vì thế những câu thơ ấy đáng cho ta ghi nhớ và ngẫm nghĩ.
Nhưng cái buồn của Nguyễn Du, sự thất vọng, tuyệt vọng của Nguyễn Du… không phải chỉ là cái buồn của thân thế, nó còn là cái buồn trước đất nước và thời cuộc. Một tất yếu lịch sử đã không thể thực hiện, xã hội Việt Nam trì trệ và rên xiết trong gông xiềng phong kiến, và điều đó là một bi kịch sâu sắc bao trùm lên toàn bộ đời sống xã hội. Cho nên nỗi buồn của Nguyễn Du đã mênh mang đến dường ấy:
Vô cùng kim cổ thương tâm xứ
(Đó là chỗ đau lòng vô hạn xưa nay).
Nhất phiến hàn thanh tống cổ kim
(Một tiếng sóng lạnh tiễn đưa kim cổ).
Rồi cũng dễ hiểu là Nguyễn Du tìm đến Lão Trang. Giai đoạn này Nguyễn Du dùng nhiều hình tượng rút ra từ Lão Trang: nào là “hạc hĩnh”, “mã đề”, “hoạn hữu thân”, “dưỡng chuyết”, nào là "ngọa thính tùng phong hưởng bán vân”, “sài môn trú tĩnh sơn vân bế”…
Đó là một giấc mơ trong sạch, nhưng chỉ là một giấc mơ. Nguyễn Du tự biện bạch bằng Lão Trang:
Tri giao mạc quái sầu đa mộng,
Thiên hạ hà nhân bất mộng trung?
(Bạn thân chớ trách tớ hay sầu mộng
Thiên hạ ai là người không ở trong mộng?)
Nguyễn Du chìm trong mộng để mong quên bởi thực đắng cay. Nhưng nào có được! ông đã hào hứng ca ngợi các thú đi săn, ở ẩn…, nhưng người như ông làm sao quên được đời!
Sau Thanh Hiên và Nam Trung thì Bắc hành là một Thái Sơn trong sáng tác Nguyễn Du. Đó là một bất ngờ lớn, nhưng là một trùng khớp với những tư tưởng nhân đạo lởn của Nguyễn Du trong Truyện Kiều.
Nguyễn Du đã làm một việc phi thường là bằng thơ ông đã đánh giá nền văn hóa Trung Hoa cổ đại, từ Tiên Tần cho đến Đường Tống.
Đối với Nguyễn Du thì cái vĩ đại là văn hóa, thành tựu của các thời đại đã qua thể hiện ở văn hóa. Văn hóa là cuộc đấu tranh bi tráng của con người trong trường kỳ lịch sử để khẳng định và phát triển bản chất người. Các triều đại trôi qua, quyền lực của vua chúa, huân danh của tương lĩnh, công hầu… thảy đều trôi qua, đều tàn lụi, chỉ còn có con người, chỉ còn có nhân văn. “Nhân gian huân nghiệp nhược trường tại. Thử địa cao đài ưng vị khuynh” (Công nghiệp ở đời nếu còn mãi, thì lâu đài nguy nga này có lẽ chưa nghiêng đổ) – Nguyễn Du viết về đài Đồng Tước của Tào Tháo. Đi qua đó, cũng như qua nhiều nơi ghi dấu công nghiệp của đế vương khanh tướng, ông chỉ thấy “gai góc mọc đầy” hoặc “gió lạnh, cỏ thu hắt hiu. Nguyễn Du chỉ coi trọng và đánh giá cao các nhân vật văn hóa, những anh hùng của nền văn minh nhân loại. Chắc hẳn rằng ông tiếp nối mạch suy tư của Lý Bạch: "Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt - Sở vương đài tạ không sơn khâu!" (Từ phú Khuất Nguyên treo cao cùng nhật nguyệt, trong khi đài tạ của Sở vương chỉ còn là núi gò).
Khuất Nguyên được ông thể hiện trong ba bài thơ liền, mạch cảm hứng rạt rào và lớn. Ông cũng nói Khuất Nguyên thanh cao, hiền đức, cô trung, độc tỉnh cái ý đó là bình thường, nhưng kết là cái ý “Gần đây người ta thích mặc đồ lạ, nhưng mà hoa tiêu hoa lan họ đeo khác với ông lắm". Bằng câu thơ ấy, Nguyễn Du kéo Khuất Nguyên từ mấy ngàn năm xưa về thời sự của thời đại mình. Những sự đua đòi của các công khanh bấy giờ đâu có qua mặt được Nguyễn Du.
Nhưng từ cái ý đó mà phát biển lên thành bài .”Phản chiêu hồn” thì thật kỳ lạ, kỳ lạ đến choáng ngợp! Sao lại chống lại bài “Chiêu hồn".) Vì cuộc đời trong con mắt Nguyễn Du là thế này đây: “Thành quách y nguyên, dân sự khác - Cát bụi lấm cả quần áo người. Đi ra ngựa xe, về vênh váo. Lên mặt Quì Cao tán chuyện đờ. Không lộ vuốt nanh cùng nọc độc - Mà xé thịt người nhai ngọt xớt”.
Đó là sự đánh giá nghiêm khắc đối với bọn thống trị thời ấy, nhà Thanh hay nhà Nguyễn thì cũng vậy thôi. Và chỉ bằng một nhát bút, Nguyễn Du dường như phủ định cái xã hội phong kiến Trung Hoa mấy nghìn năm sau đời Tam hoàng:
Hồn ơi! Hồn ơi! Nếu đi theo con đường đó
Thì sau Tam Hoàng không còn là thời của ông nữa.
Sau Tam Hoàng là thời của bọn “ăn thịt người ngọt xớt”. Lỗ Tấn chẳng đã từng khái quát xã hội phong kiến Trung Hoa là một xã hội “ăn thịt người” đó sao? Nhưng xúc động nhất là câu:
Đại địa xứ xứ giai Mịch La
(Trên mặt đất này đâu đâu cũng là dòng Mịch La – dòng sông Khuất Nguyên trầm mình).
Bi phẫn biết chừng nào! Sao Nguyễn Du, con người hay sầu mộng và đa cảm nữa, lại có thể bất ngờ vút lên một câu thơ khái quát vĩ đại đến thế? Trong lịch sử văn học thế giới, người ta ca ngợi Hamlet của Shakespeare (1564-1616) với. cái mệnh đề nổi tiếng “To be or not to be”. Lúc bấy giờ là những năm chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng đứng trước một bước ngoặt, nó không còn là “giấc mộng đêm hè” tươi vui nữa, nó bi đát và bi phẫn, nó bị phản bội và đe dọa. Qua bi kịch của Hamlet, Shakespeare muốn đặt một vấn đề bức xúc cho nhân loại: sống hay là không sống đây, sống thì sống thế nào giữa tội ác, giữa sự phản bội, đen tối? Shakespeare viết cả một vở kịch, còn Nguyễn Du viết một bài thơ, nhưng ý tứ hai tác phẩm thật có chỗ tương đồng. Phản chiêu hồn cũng như Hamlet là sự khẳng định chủ nghĩa nhân văn bằng cái nhìn phủ định.
Một thiên tài xuyên suốt mọi thời đại là Đỗ Phủ. Đỗ Phủ được đánh giá là “trên làm nhạt Phong Tao, dưới làm mờ Thẩm, Tống; lời thơ vượt cả Tô, Lý; khí thơ át cả Tào, Lưu; che khuất Nhan, Tạ đỉnh cao, nhuộm đục Từ, Dữu dòng thắm, được tất cả cái thể thế của cổ kim, có tất cả cái độc chuyên của từng thi sĩ, người làm thơ xưa nay chưa từng có ai như Đỗ Tử Mỹ (Nguyên Chẩn). Nguyễn Du cũng đánh giá Đỗ Phủ là “văn chương nghìn đời và bậc thầy nghìn đời” (thiên cổ văn chương, thiên cổ sư). ông không dấu giếm sự khâm phục của mình đối với bậc thầy và xác nhận ảnh hưởng của Đỗ Phủ đối với ông. “Bình sinh bội phục vị thường ly” – “Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lăng thi”. Ảnh hưởng sâu sắc đó dẫn Nguyễn Du đến con đường lớn của chủ nghĩa hiện thực. Nguyễn Du còn tự xem mình là tri âm tri kỷ duy nhất của Đỗ Phủ sau một nghìn năm trên cõi đời này. Sau hơn một nghìn năm trên đời này, không có ai hiểu và thương Đỗ Phủ như Nguyễn Du. Không có ai. Mọi người chỉ khen ngợi thèm khát cái danh của Đỗ Phủ, cái danh được làm thầy thơ muôn đời !
Thói thường là vậy. Chỉ có một thi sĩ vĩ đại cỡ Nguyễn Du mới vừa hiểu cái lớn vừa hiểu nỗi đau của Đỗ Phủ. Cùng cảnh nghèo, Đỗ Phủ thì “trai rên gái khóc” trong tuyết giá, phải vác mai đi đào củ mài cho đỡ đói. Còn Nguyễn Du “mười miệng ăn kêu đói ở phía bắc Hoành sơn” “mười mặt con thơ như lá úa”. Cái danh “thiên thu vạn tuế”, như Đỗ Phủ nghĩ, chỉ là chuyện “lặng lẽ sau khi chết” (Thiên thu vạn tuế danh – Tịch mịch thân hậu sự), chứ còn cuộc đời trước mặt là cùng khốn. Đến nỗi chết thê chết thảm, không thể đem về chôn ở quê nhà, phải gởi nấm mồ nơi đất khách: “Độc bi dị vực ký cô phần”. Bài Lỗi dương Đỗ Thiếu lăng mộ là một kiệt tác, một đỉnh cao nữa của Nguyễn Du. Nó làm vinh danh thơ, vinh danh con người. Chỉ có những thi sĩ như Nguyễn Du, cách nhau hơn 1000 năm, ở hai đất nước mới có thể thương nhau đến thế? Trong lịch sử văn hóa nhân loại, người ta thường nhắc đến tình bạn giữa Lý Bạch và Đỗ Phủ, giữa Goethe và Schiller, giữa Rimbaud và Verlaine; cần thêm vào đó tình bạn "dị đại tương liên” giữa Nguyễn Du và Đỗ Phủ.
Có thể lấy Lỗi dương Đỗ Thiếu lăng mộ làm bài thơ tiêu biểu để khảo sát thi pháp thơ chữ Hán Nguyễn Du. Chỉ cần dẫn ra hai câu trong bài:
Cộng tiễn thi danh sư bách thế,
Độc bi dị vực ký cô phần.
ta sẽ thấy trên trục tương cận (hay trục hoán dụ, theo cách gọi của R.Jakovson) chữ đã gọi chữ tuyệt diệu như thế nào: tiễn nghĩa đen là thèm, là khen: người ta thèm khát, khen khao coi thi danh làm thầy thơ muôn thuở của ông. Còn riêng tôi, tôi lại thường cho nấm mồ cô đơn của ông phải gởi nơi đất khách. Phần (nấm mồ), gọi cô, gọi ký, gọi dị vực, câu thơ cho thấy tài dùng chữ súc tích, đa nghĩa của Nguyễn Du. Nhưng đằng sau chữ là một tấm lòng nghìn đời.
Những đối lập hiển ngôn và những đối lập tiềm ngôn, vừa đối lập vừa tương quan trong hai câu thơ là hết sức đặc trưng cho thi pháp Đường luật, giống như hai câu “Vạn lý bi thu thường tác khách – Bách niên đa bệnh độc đãng đài” trong bài Đăng cao của Đỗ Phủ. Những mảnh đời của Đỗ Phủ được tái hiện qua vài chữ của chính ông để gợi lại một hoài niệm: “nho quan đa ngộ thân”, “nam thân nữ ngâm” là những chữ trong thơ Đỗ Phủ, các cách hỏi “thành hà dụng”, hình ảnh “đám mây chiều (nhật mộ vân) gợi lên bao chua chát và buồn đau mênh mông. Nhạc của bài thơ là một điệp trùng, hồi hoàn, sự ngân dài nhịp nhàng của những thanh bằng cuối câu gợi lên những nét nhạc buồn thấm thía.
Nguyễn Du còn nói đến nhiều nhân vật văn hóa khác nữa, và bao giờ cũng đặt mình chung nỗi đau, chung số phận của các tài tử trong thiên hạ:
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
(Tôi tự xem mình là người cùng mang mối oan lạ lùng của người phong nhã).
Vấn đề văn chương và số mệnh, vấn đề tài và mệnh là một vấn đề ám ảnh Nguyễn Du rất nhiều. Một vấn đề Nguyễn Du hay chạm đến trong khi nói về các nhân vật lịch sử là vấn đề quyền lực.
Tất cả các nhân vật tiêu biểu cho quyền lực đều được ông xét đến được một góc độ duy nhất: họ đã cống hiến cái gì cho con người, cho dân tộc và thời đại họ? Trên nẻo đường ông qua, qua những ngôi mộ cổ, những phế tích của đền đài, lầu các… dần dần hiện ra con đường của lịch sử văn hóa Trung Hoa, và tất cả như nói với hậu thế những bài tiệc thấm thía về quyền lực. Quyền lực, nếu chỉ để tác oai tác phúc tha hồ, để kẻo lùi lịch sử lại, thì rốt cuộc nó sẽ phơi trần trong thời gian như một cái gì hết sức vô nghĩa. Nhưng cũng từ cái nhìn đó mà Nguyễn Du thâm cảm và biểu dương hết lời những nhân vật và quyền lực đứng về phía con người, đất nước và nhân dân.
Nguyễn Du đặc biệt quan tâm đến số phận và tính cách của những nhân vật lịch sử, cũng là số phận của chính lịch sử.
Ông nói đến Mã Viện với một chút mai mỉa. Ông nhắc đến Hoàng Sào: ông cho Hoàng Sào nổi dậy là do do triều đình hẹp hòi, câu nệ, không biết dùng người tài năng, ông gọi Hoàng Sào là “hoàng đế", là người làm “biến đổi gió mây" – lời thơ không có chút gì coi thường. (Trong Truyện Kiều có câu: “Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào” nhưng đó là lời của nhân vật, lời của Thúy Kiều trong một tâm trạng mệt mỏi). Ông vẽ những chân dung bằng thơ của Lạn Tương Như, Liêm Pha, Dự Nhượng, Tô Tần, Hàn Tín… Đó là những bức chân dung độc đáo, là triết học – lịch sử bằng thơ ca, qua đó Nguyễn Du gởi gắm tâm sự và sự đánh giá của riêng mình. Hegel có nói rằng "thơ ca cao hơn sử học", điều nhận xét sâu sắc ấy của Hegel đúng trong trường hợp Nguyễn Du.
Nguyễn Du đã viết ba bài về Tào Tháo. Hẳn là nhân vật này đã làm ông suy tưởng nhiều. Tào Tháo là một nhân vật lịch sử, một nhà quân sự, chính trị và văn chương. Đó là một nhân vật lịch sử phức tạp và độc đáo. Nhưng nhân vật này còn sống một đời sống khác qua văn học nhất là qua tiểu thuyết “Tam quốc chí”. Nguyễn Du mượn chuyện Tào Tháo, chuyện đài Đồng Tước, chuyện 72 ngôi mộ giả… để gởi vào đấy suy nghĩ của mình về lịch sử nhân loại, đặc biệt suy nghĩ về chữ tâm và quyền lực. Đài Đồng Tước đổ, hoang tàn, công nghiệp một thời của Tào đâu còn dấu vết, chỉ để tiếng là người gian xảo, cơ tâm, làm đau lòng nước sông Chương nghìn thuở. Nguyễn Du đau nỗi đau của lịch sử, của nghìn năm như đau nỗi đau của chính thời đại mình. Nguyễn Du cũng đã đứng cao trên đầu Tào Tháo, trên các thời đại để phán xét, nhân danh chủ nghĩa nhân văn vĩ đại mà ông là người phát ngôn.
Chuyện Nhạc Phi – Tần Cối cũng khiến Nguyễn Du để tâm nhiều, Triều Nguyễn nếu như không đầy gian nịnh thì cũng là một triều đại không vừa với tầm cỡ tâm hồn Nguyễn Du; ông cảm thấy khó sống. ông cũng đã chứng kiến bao thảm kịch !rong triều, cho nên đề tài này ông tâm đắc, ít khi lời thơ ông sảng khoái, tâm huyết đến thế. Chuyện mỉa mai là gian thần thì lưu phương” “bất tử” nhờ “ăn theo” trung thần! Gian thần Tần Cối được tạc tượng bên mộ Nhạc Phi, dù là để cho người đời phỉ nhổ. Nó “có công” là làm cho bọn gian nịnh ngàn năm sau phải sợ. Thống thiết nhất là câu:
Nhất thể tử tâm hoài đại độc,
Thiên niên sinh thiết phụ kỳ oan.
(Suốt đời trái tim chết của nó mang nọc độc,
Thế mà nghìn năm sắt sống phải chịu nỗi oan lạ lùng là phải bị đem tạc tượng nó).
Ông nói đến Văn Thiên Tường, con người của "Vầng chính khí”:
Ai trung xúc xứ minh kim thạch,
Oán huyết qui thời hóa đỗ quyên
Văn Thiên Tường lúc bị giặc bắt, bị đày lên phía bắc, từng ước mơ sẽ hóa thành cuốc kêu ra máu bay về đất Giang nam. Câu thơ Nguyễn Du dùng lại ý ấy trong lời thơ Văn Thiên Tường.
Nguyễn Du hay nói đến “cô trung”, đến “tiết nghĩa”, những điều trí thức thời xưa thấm thía. Đối với Nguyễn Du, đó cũng là những giá trị trong cuộc đấu tranh bi tráng cho một lý tưởng nhân văn cao cả về con người.
Ta hãy xét qua chủ nghĩa nhân văn của Nguyễn Du trong Thơ chữ Hán. Từ chỗ nhìn cuộc đời thấy nó tàn lụi, buồn chán, vô nghĩa, chỉ còn cách đi ở ẩn là trong sạch; dần dần, do lịch duyệt cuộc đời, do sách vở, nhất là do Đỗ Phủ. Nguyễn Du đã nhìn đời một cách khác. Đó là một bước chuyển biến lớn. Giờ đây Nguyễn Du vẫn buồn đau – thơ ca luôn luôn nhạy cảm với nỗi đau khổ của con người, huống nữa thời đại Nguyễn Du là một thời đại bi kịch. Nhưng cái nhìn ấy, so với trước, đã mạnh khỏe hơn và chứa đầy những ý tưởng lớn. Long thành cầm giả ca là một bài thơ tiêu biểu cho một loạt bài về số phận bi kịch của người phụ nữ. Nó được viết trên một câu chuyện có thực, theo truyền thống Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị. Nhưng nó khác với Tỳ bà hành. Người phụ nữ gảy đàn trong Tỳ bà hành già đi theo năm tháng, rồi bị chồng ruồng rẩy, cuộc đời lận đận. Bạch Cư Dị gặp nàng trong lúc mình bị giáng trích, khóc rất nhiều. Những giọt nước mắt của Bạch Cư Dị nghìn năm sau còn làm người ta cảm thương, và chủ đề “kỹ nữ" đã trở thành một chủ đề của mọi thời đại. Nguyễn Du chắc chắn là đã tiếp nhận tiếng vang của những rung cảm lớn đó trong Tỳ hà hành, nhưng Nguyễn Du đã đem lại cho Long thành cầm giả ca một âm điệu khác. Số phận của người đánh đàn được Nguyễn Du đặt vào trong những biến động mãnh liệt c�! ��a thời đại. Tây Sơn nổi lên ghê gớm như thế, hào hùng hào hoa như thế, cuối cùng tiêu vong, và nàng Cầm là cái nhân chứng duy nhất của triều đại ấy còn sót lại:
Tây sơn cơ nghiệp tận tiêu vong
Ca vũ không di nhất nhân tại.
Trăm năm chớp mắt! Một nỗi buồn thật lớn và thấm thía. Nguyễn đã già, người giai nhân có tiếng đàn kỳ diệu bậc nhất kinh thành cũng đã già, đã tiều tụy, vàng võ. Cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa của Nguyễn Du không phải chỉ là cảm hứng về một số phận riêng biệt, nó đồng thời cũng là cảm hứng về thời đại, về nhân loại.
Người ta nói Nguyễn Du trân trọng người phụ nữ. Đó là nét nổi trội của chủ nghĩa nhân đạo của mọi thời, từ Đông sang Tây, từ Phục hưng đến thế kỷ XIX. Nguyễn Du cảm thương vô hạn trước những số phận phụ nữ. Chưa có ai đã viết hay về những Tiểu Thanh, Đương phi, người ca kỹ La Thành… như Nguyễn Du. Chưa có ai nói mình là người cùng hội cùng thuyền với nỗi oan của Tiểu Thanh… như Nguyễn. Những mạch nguồn nhân đạo ấy đã tích tụ lại và đã thành Kiều, đại dương mênh mông của chủ nghĩa nhân đạo. Nàng Kiều dù trong nhơ đục vẫn trong trắng, vẫn vươn lên trên kiếp người của mình, đứng cao hơn nó, và có lúc Nguyễn Du đã đi tới đầu mút của chủ nghĩa nhân đạo: “Đục trong thân cũng là thân “. Cái quí nhất đối với con người là chính bản thân con người vậy: “con người là thực thể cao nhất”, “con người là Thượng đế của bản thân con người”. Chủ nghĩa nhân đạo trong chủ nghĩa hiện thực đó đã được thể hiện trong nhiều kiệt tác khác như Thái bình mại ca giả, Sở kiến hành,Trở binh hành… Ta bắt gặp trong các bài thơ ấy một chủ nghĩa nhân đạo làm rang sáng toàn bộ nền văn học Việt
Thơ chữ Hán Nguyễn Du là đỉnh cao: của thơ chữ Hán Việt
Nói về thi pháp thơ chữ Hán Nguyễn Du, chúng ta có thể nói về ý thú, về thanh vận, về các phong cách (theo nghĩa hẹp), về cách luật (thừa, chuyển, hợp…), về đối ngẫu, cú pháp, tự pháp… Tất cả những cái đó là những phương diện quan trọng của thi pháp theo nghĩa cổ điển, và sự khảo sát nó một cách tỉ mỉ sẽ đưa lại những phát hiện thú vị. Ở đây, chúng tôi chưa có điều kiện để làm công việc ấy. Chúng tôi chỉ xin phác họa một vài nét của thi pháp hiểu theo nghĩa những phương diện hình thức mang một ý niệm nghệ thuật, một quan niệm về cuộc sống.
Chữ Hán là một thứ chữ tạo hình, bản thân nó mang những ký hiệu tượng trưng gợi nghĩa, bài thơ là một không gian mang tính hội họa, tính ấn tượng và gợi mở về thế giới hiện thực – cảm xúc. Cấu trúc thơ Đường nặng về đối xứng, tạo sự hài hòa, cân đối – thể hiện khát vọng của thời đại đi tìm sự hài hòa với vũ trụ, với cái Nhất như. Nhưng đằng sau sự hài hòa cân đối của cấu trúc bên ngoài đó, một cấu trúc chiều sâu tiềm ẩn lại thể hiện sự đối nghịch, đặc trưng vĩnh cửu của Nghệ thuật và chính sự đối nghịch này, mới làm nên đặc sắc nghệ thuật của Đường thi. Thơ chữ Hán Nguyễn Du không đi ra ngoài đường biên đó.
Ông đã tìm đến những đối nghịch, những “nghịch phách” hiệu quả nhất:
- Cộng tiễn thi danh sư bách thế
Độc bi dị vực ký cô phần
- Kiến thuyết giá nhân hữu tam tử,
Khả lân do trước khứ thời y.
- Yên chi bất tẩy sinh tiền chướng,
Phong nguyệt không lưu tử hậu danh.
- Tương thức mỹ nhân khan bão tử,
Đồng du hiệp thiếu tán thành ông.
- Tự thị cử triều không lập trượng,
Uổng giao nhi nữ tội khuynh thành.
- Trắc thân bất xuất hữu hình ngoại,
Thiên tuế trường ưu tử vị tiền.
Hàng trăm câu như thế, hàng trăm đối nghịch tài hoa mà sâu sắc như thế, làm nên tư tưởng nghệ thuật, làm nên thế giới nghệ thuật của Nguyễn Du, một thế giới tràn ngập những suy tư bạc tóc về nhân thế.
Để đi đến những khái quát rạng rỡ, thuần thục như trên, Nguyễn Du đã trải qua một quãng đường rèn luyện; dù ông là người “nhất thế tài hoa”. Dù ngày xưa chữ Hán thấm vào cốt tủy các cụ, nó vẫn là một thứ chữ ngoại lai, vì vậy bước đầu làm thơ phải theo các khuôn mẫu đúc sẵn. Đi thi ngày xưa phải thuộc lòng ít nhất “thi thiên, phú bách, văn sách năm mươi” (nghìn bài thơ, trăm bài phú, năm mươi sách”. Đối với bậc đại gia như Nguyễn Du, chuyện thuộc lòng như thế là chuyện của thời tóc còn để trái đào. Nguyễn Du tài hoa rất mực, và rất có bản lĩnh. Nguyễn Du không như các cụ khác gò gọt làm thơ cả khi không có hứng. Khi không cỏ gì để gởi gắm. Nhưng ta có thể nhận thấy rằng trong bước đầu làm thơ chữ Hán – lúc ấy Nguyễn Du chừng gần hai mươi. Người vẫn phải theo khuôn thước cổ nhân. Lúc đó Nguyễn Du chưa thể đạt tới cái bình đạm và nồng hậu, giản dị mà hàm súc, từ thiển mà ý thâm, lời hết mà ý vô cùng… như sau này lúc đã nếm đủ vị đời. Như một cậu học trò đang hướng theo các vị thầy lớn, Nguyễn Du lúc ấy còn tỏ ra thích thú kiểu cú pháp đảo trang hiểm hóc, kỳ lạ, kiểu như câu:
Mục túc thu kiêu kim lặc mã,
Bồ đào xuân úy ngọc lậu nhân.
(Đại nhân hí bút)
Cách đặt câu như thế không phải là không thú vị. Nó cũng có cái đẹp của cú pháp thơ chữ Hán mà ở đó mỗi chữ là một ký hiệu tự do bất cần cú pháp thông thường vẫn tạo cú và tạo nghĩa. Đó là kiểu chơi chữ của đại thi hào Đỗ Phủ mà câu sau đây nghìn sau ,vẫn lấy làm mẫu mực:
Hướng đạo trác dư anh vũ lạp,
Bích ngô thê lão phượng hoàng chi
Lúc này Nguyễn Du mới đến với Đỗ Phủ ở cái phần hình thức của “bậc thầy thơ nghìn đời”, người muốn làm cho từ ngữ của mình phải làm cho mọi người kinh động (“ngữ bất kinh nhân tử bất hưu). Nhưng càng về sau Đỗ Phủ càng biết rõ muốn làm “kinh nhân”, cần phải làm cho từ ngữ cân đo được cuộc đời, xúc động được lòng người.
Hai câu thơ sau đây của Nguyễn Du, đứng về phương diện cổ văn, thì là cực hay, các cụ xưa đọc đến có lẽ cứ phải khuyên son liên tiếp:
Đoàn soa ngư chẩm cô chu nguyệt,
Trường địch đồng xuy cổ kính phong
(Hoàng mai kiều vãn điếu)
hay:
Cổ độ tà dương khan ẫm mã
Hoang giao tĩnh dạ loạn phi huỳnh.
(Vị Hoàng doanh)
Nhưng cầu kỳ biết bao và cũng ước lệ biết bao ! Về mặt chơi chữ chơi câu, hay thì có hay, thú thì có thú, nhưng nếu chỉ viết những câu như thế thôi, đâu có thành Nguyễn Du được. Vượt qua thời làm học trò giỏi, Nguyễn Du đã nhanh chóng đạt đến sự thành thục sâu sắc trong việc viết những câu thơ chữ Hán của chính mình. Vì vậy, thơ Nguyễn Du vẫn tuân thủ luật Đường, vẫn mang tất cả những đặc điểm của thơ Đường như sự tiết kiệm tối đa các phương tiện biểu đạt nhưng lại tạo ra một trường liên tưởng đầy đủ (sự tỉnh lược đại danh từ, giới từ, trạng từ, những từ so sánh và động từ… và sự vận đụng những điệu, vần, đối vị, điệu thức và hiệu quả âm nhạc…) nhưng mặt khác Nguyễn Du cũng không giống bất cứ một nhà thơ đời Đường nào khác, kể cả bậc thầy Đỗ Phủ. Có lẽ đó là nhờ Nguyễn Du đã biết rằng “linh văn bất tại ngôn ngữ khoa “ (văn thiêng không phải ở ngôn ngữ); cần hướng tới “không lời” (vô ngôn) mầu nhiệm, tức là hướng tới chính bản ngã của mình và bản thể vũ trụ.
Sau đây xin trình bày vắn tắt về bản dịch mới của chúng tôi.
Hiện thời, có các bản dịch Thơ chữ Hán Nguyễn Du sau đây:
1. Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Bùi Kỷ – Phan Võ – Nguyễn Khắc Hanh dịch. Nhà xuất bản Văn hóa – Hà Nội, 1959. Bản dịch gồm 102 bài.
2. Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Lê Thước – Trương Chính dịch. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1965. Bản dịch gồm 249 bài.
3. Tố Như Thi trích dịch. Quách Tấn dịch. An Tiêm, Sài Gòn, 1973. Bản dịch gồm 92 bài.
4. Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Đào Duy Anh dịch. Nhà xuất bản Văn học, 1988, 249 bài.
Như vậy, trong vòng hơn ba mươi năm, đã có 4 bản dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du. Các bản dịch này kế thừa kinh nghiệm nhau, mỗi bản đều có những ưu điểm lớn, đều là của những bậc túc nho uy tín. Vì sao chúng tôi lại trình bày một bản địch mới?
Về việc này chúng tôi xin được nói rõ đôi lời. Trong 4 bản dịch kể trên, thì bản Bùi Kỷ… và bản Quách Tấn dịch không đầy đủ, tuy bản Bùi Kỷ là bản đầu tiên và các cụ dịch rất chắc, nhiều bài phải coi là mẫu mực. Còn bản Quách Tấn thì chủ yếu thành tựu nằm ở mặt dịch thơ, về dịch nghĩa thì đại để là dựa vào bản dịch của Lê Thước – Trương Chính, tuy đôi khí có đưa ra những cách hiểu mới. Vậy chỉ còn lại hai bản dịch của Lê Thước và của Đào Duy Anh. Bản Lê Thước. – Trương Chính tuy có kế thừa bản Bùi Kỷ, nhưng đi theo một cách dịch khác: diễn đạt tình ý của thơ chữ Hán Nguyễn Du ra văn xuôi tiếng Việt một cách lưu loát, tài hoa làm người đọc tiếp nhận nguyên tác một cách thích thú. Nhưng có lẽ cũng chính vì thế mà nhiều chỗ không thật sát với câu chữ của nguyên tác, đôi chỗ đi hơi xa, làm cho bản dịch không thật đạt về mặt dịch nghĩa theo yêu cầu khoa học. Sinh thời, văn hào Goethe có nói: “Tất nhiên, chúng ta phải cúi chào tiết tấu và âm vận là những đặc tính nguyên thủy của thơ", nhưng trong buổi đầu nghiên cứu tôi muốn có một bản dịch tái hiện lại thật trung thực từng câu từng chữ của nguyên tác.
Thi hào Nga Puskin cũng ‘nói: “Bản dịch nghĩa phải như một bản chụp bằng tia Rơnghen đối với nguyên tác”.
Đào Duy Anh có lẽ đã đi theo yêu cầu này khi ông không hài lòng với bản dịch Lê Thước – Trương Chính và dịch lại một bản khác. Bản dịch của Đào Duy Anh có những ưu điểm mới, những cách hiểu mới và nhiều chỗ diễn đạt gọn, chắc, khỏe; đáng tiếc là ông gò bó, thắt ngặt quá trong cách truyền đạt lại áng văn, nên nhiều chỗ phải nói là chưa đạt. Đã thế, cuốn sách lại chứa đựng quá nhiều lỗi in, nhất là ở phần phiên âm, mà lại không in chữ Hán, giấy lại xấu, nên bản này có thể nói là khó dùng.
Đó là mới nói phần dịch nghĩa. Phần dịch thơ cũng rất quan trọng, vì thực ra thơ chỉ có thể dịch bằng thơ – chất thơ phải được dịch bằng chất thơ, nhịp điệu phải được dịch bằng nhịp điệu… thì mới thấy hết cái đặc sắc của nó. Điều này thực khó, nhất là với việc dịch tác phẩm của thiên tài thơ Nguyễn Du. Từ trước đến nay, mặc dù số người dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du đông đảo, những đạt được sự thành công được thừa nhận quả là hiếm. Bản A và bản B chú trọng dịch nghĩa, thơ dịch cốt đạt “lời nghĩa chỉnh”; bản dịch C thêm nhiều bài dịch mới của các bạn làm công tác nghiên cứu ở Viện Văn học; đồng thời cũng có nhiều bản dịch của Đào Duy Anh, một học giả nổi tiếng. Bản dịch thơ của Quách Tán, khá truyền cám… nhưng ông chỉ dịch có hơn 90 bài.
Nay nhân dịp xuất bản NGUYỄN DU TOÀN TẬP chúng tôi dịch lại toàn bộ phần thơ chữ Hán. Công việc dịch thơ do nhà thơ NGÔ LINH NGỌC, một nhà thơ chuyên dịch cổ thi, đảm nhiệm.
Chúng tôi cũng theo thông lệ là có tuyển chọn thêm một số bán dịch đã được thời gian thử thách. Phần dịch nghĩa, chú thích, sắp xếp, tuyển chọn do Mai Quốc Liên chịu trách nhiệm chính.
Điều trước tiên chúng tôi xin được nói rõ: là những người đi sau, chúng tôi có cái thuận lợi hơn những người đi trước. Chúng tôi đã cố gắng kế thừa tất cả những tinh hoa, những ưu điểm của các bản dịch trước, đồng thời cố gắng khắc phục những nhược điểm, nhũng sơ suất của các bản dịch ấy. Tất nhiên chúng tôi làm việc này một cách có cân nhắc, có suy nghĩ, nhằm đạt cho đượcc sự chính xác và vẻ đẹp của hình tượng câu thơ, không gò bó quá mà cũng không phóng túng quá; giữ sao cho bản dịch chân thực mà tinh tế, nhằm chuyển tải thế giới tình cảm, suy tư của Nguyễn Du đến bạn đọc một cách tốt nhất. Đó là mong ước, còn làm được đến đâu lại là chuyện khác. Bạn đọc sẽ thấy rằng chúng tôi – cũng như ông Đào Duy Anh đã nói trong lời Phàm lệ bản dịch của ông, “thỉnh thoảng có những câu thấy các bản dịch cũ dịch đúng và hay chúng tôi không ngại mượn trọn cả câu hay nhiều câu vào bài dịch của chúng tôi. Tuy nhiên, thường thì chúng tôi dịch lại theo lời văn của chúng tôi, nhất quán trong toàn bài và toàn bản dịch; điều đó nếu đối chiếu bạn đọc sẽ thấy rõ. Về chú thích, thì có thể nói trên đại thể là dựa vào các chú thích của các bản dịch trước đặc biệt là bản dịch Lê Thước – Trương Chính. Ở chỗ nào dùng gần như nguyên văn chú thích cũ, chúng tôi đều có ghi chú. Nhưng chúng tôi cũng đã tra cứu để chú thích lại rất nhiều ch! ú thích (chú thích điển cố, chú thích từ ngữ, chú thích văn bản…) để có được sự phong phú hơn và chính xác hơn, nhằm mục đích soi sáng ý thơ, lời thơ.
Về dịch thơ, hầu hết chúng tôi cố gắng dịch theo nguyên vận và cố gắng tránh gieo lại vần của những người đã dịch trước, và cái chính, như đã nói ở trên, cố gắng truyền đạt chất thơ, chất cảm xúc, rất phong phú, tinh diệu và hàm súc của Nguyễn Du. Về việc dịch thơ, cũng như bất cứ ai làm công việc này, chúng tôi vấp phải vấn đề hai ngôn ngữ. Tiếng Hán và tiếng Việt đều đơn âm, và tiếng Việt có rất nhiều từ Hán Việt, điều đó khiến cho việc chuyển dịch dễ mà hóa khó. Cái khó lớn nhất là làm sao chuyển đạt được cái thế giới thơ, hình tượng và cảm xúc, triết lý và giọng điệu, những tương giao mờ tỏ và những điều ẩn hiện sau ngôn ngữ, cái “sắc ở ngoài sắc, vị ở ngoài vị” của thơ. Chúng tôi đã cố gắng, nhưng còn đạt được đến đâu, xin để quý vị độc giả giám định.
Xin nói một đôi lời về việc sắp xếp thứ tự các bài thơ trong tập Theo chúng tôi, trình tự sắp xếp của các bài thơ của Thanh Hiên và Nam Trung trong bản B là thỏa đáng, và chúng tôi theo cách sắp xếp này. Đào Đuy Anh đã nghiên cứu hành trình đi sứ của Nguyễn Du và đưa ra giả thuyết, từ đó sắp xếp lại các bài trong tập Bắc hành. Nhưng những chứng cứ mà ông đưa ra để chuyển Độc Tiểu Thanh ký vốn trước kia được sắp vào Thanh Hiên sang Bắc hành, cũng như chuyển Phản Chiêu hồn và Biện Giả sang Thanh Hiên chưa thật sự thuyết phục. Ông chỉ mớ “ngờ” và "đoán”: “ngờ rằng bài này” (Độc Tiểu Thanh ký) làm trong khi thăm mộ Tiểu Thanh ở Hàng Châu, “Phản Chiêu hồn và Biện Giả không phải là do thấy cảnh ở trên đường đi sứ mà làm như các bài khác, chúng tôi đoán có thể là nhà thơ chỉ nhân đọc sách Sở từ mà làm, có thể làm trước khi đi sứ…” (trang 31, sđd). Những gợi ý của ông là đáng quý, nhưng cần nghiên cứu thêm. Cho nên chúng tôi vẫn sắp Phản Chiêu hồn và Biện Giả và Bắc hành, còn Độc Tiểu Thanh ký vẫn để cuối Thanh Hiên. Đối với Bùi Tân công mộ và Dường phi cô lý mà Đào Đuy Anh cho rằng “không chắc chắn là của Nguyễn Du vì đối chiếu với s! ứ trình thì Nguyễn Du không đi qua đấy, chúng tôi vẫn sắp xếp theo thứ tự mà tập Bắc hành tạp lục (chữ Hán) đã sắp xếp.
Chúng tôi vẫn xem tập chữ hán chép Bắc hành tạp lục (ký hiệu Viện Hán Nôm, A. 1494) là rất có giá trị. Căn cứ vào đấy chúng tôi đã đưa thêm vào tập này bài “Lối dương Đỗ Thiếu lăng mộ” (II).
Kỳ dư, một số thay đổi các bài ở cuối tập cho khớp theo hành trình của Nguyễn Du thì chúng tôi cho rằng có lý và xin theo cách sắp xếp ấy
Bản thảo tập sách này đã được nhà nghiên cứu Hán Nôm Nguyễn Quảng Tuân đành rất nhiều thì giờ đọc lại và góp cho rất nhiều ý kiến quí báu. Khi thành bản in thử ông lại vui lòng duyệt lại cho một lần nữa. Chúng tôi xin hết lòng cảm tạ thịnh tình của ông. Mặc dù đã hết sức cố gắng, cuốn sách chắc chắn còn nhiều sai sót khó tránh khỏi do trình độ có hạn của chúng tôi, mong được bạn đọc lượng thứ.
Tiết Tiểu hàn, Giáp Tuất (1-1995)
MAI QUỐC LIÊN
Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét