LIÊU HỮU PHƯƠNG
NHÀ THƠ ĐẤT GIAO CHỈ ĐỜI ĐƯỜNG
Sưu tầm và thực hiện ebook: Goldfish
Ngày hoàn thành: 26-12-2009
Vài lời thưa trước
Tôi tình cờ bắt gặp bài viết Phát hiện một chí một nhà thơ người Việt
Nguyễn Phạm Hùng, trong bài Tính toàn vẹn của lịch sử văn học, còn cho biết Liêu Hữu Phương còn có bài ký chép Toàn Đường văn. Theo ông Hùng, thì bài ký và bài thơ của Liêu Hữu Hùng, được cho vào "Trong công trình Sưu tầm và khảo luận tác phẩm chữ Hán của người Việt Nam trước thế kỷ X, Trần Nghĩa đã giới thiệu có căn cứ đáng tin cậy về "trên 20 tác phẩm lớn nhỏ viết bằng chữ Hán của người Việt Nam từ thế kỷ 10 trở về trước". (Theo Tính toàn vẹn của lịch sử văn học, tạp chí Thời đại mới, Số 8 - Tháng 7/2006, http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai8/200608_NguyenPhamHung.htm).
Dưới đây, xin mời các bạn cùng tìm hiểu nhà thơ Liễu Hữu Phương qua ba bài viết (theo thứ tự bài sau nhiều chi tiết hơn bài trước):
- Người Việt duy nhất có tên trong Đường Thi Tập của Trường Giang.
- Phát hiện mộ chí một nhà thơ Việt Nam đời Đường tại Tây An, Trung Quốc của Lê Hải
- Liêu Hữu Phương (trích trong bài Trò "bịt mắt bắt dế" của ông bà tiến sĩ thời nay) của Minh Di.
*
* *
NGƯỜI VIỆT DUY NHẤT CÓ TÊN TRONG ĐƯỜNG THI TẬP
Tác giả: Trường Giang
Nguồn: CAND Online (Chủ Nhật, 31/08/2008)

Nhà nghiên cứu Trương An Hưng vừa phát hiện tấm mộ chí đời Đường
Những phát hiện mới của nhà nghiên cứu kiêm Phó trưởng Ban bảo quản Viện Bảo tàng Bi Lâm Trương An Hưng vừa được tờ Tây An vãn báo của tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc số ra mới đây đăng tải. Theo đó, thi sỹ đời Đường gốc Việt Liêu Hữu Phương là người Giao Chỉ duy nhất có tên trong tuyển tập thơ Đường (Đường Thi tập), gồm 2.352 người.
Điều đáng nói là trong tuyển tập thơ Đường tuy chỉ ghi lại một bài thơ của Liêu Hữu Phương, nhưng ông không những được thi sỹ thời đó đánh giá cao, mà còn được cả triều đình và người dân ngưỡng mộ bởi tài đức, cũng như nhân phẩm.
Qua khảo sát ban đầu của nhà nghiên cứu Trương An Hưng, trên tấm mộ chí hình vuông với kích thước 40cm x 40cm người ta viết, chủ nhân tên là Liêu Hữu Phương ở Giao Chỉ thuộc đại Đường An nam đô hộ phủ (hiện thuộc khu vực Bắc Bộ Việt Nam), là người nổi tiếng về văn chương và đã đỗ Tiến sỹ năm Nguyên Hòa thứ 11 (năm 816 sau Công nguyên, đời Đường Hiến Tông) sau khi tới Trung Nguyên lập nghiệp.
Đỗ Tiến sỹ, Liêu Hữu Phương được bổ nhiệm làm Huyện lệnh huyện Vân Dương, phủ Kinh Triệu (nay là quận Trường An, thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc). Sau đó, Liêu Hữu Phương còn được bổ nhiệm làm Hiệu thư lang trong triều đời Đường Hiến Tông.
Sau khi biết về phát hiện của nhà nghiên cứu Trương An Hưng – tìm thấy một tấm mộ chí đời Đường dưới lòng đất tại quận Trường An và đưa về Viện Bảo tàng Bi Lâm cất giữ, phóng viên tờ Tây An vãn báo đã có bài viết với tựa đề "Chứng cứ về việc thi nhân người Giao Chỉ bán ngựa chôn hàn sỹ".
Liễu Tông Nguyên (773-819), đại thi sỹ thời đó từng ca ngợi Liêu Hữu Phương là một thi nhân hiếm có sau khi xem những tác phẩm của ông. Trước khi thành danh, Liêu Hữu Phương từng được gia đình Liễu Tông Nguyên đối xử tốt và 2 người thường trao đổi thơ với nhau. Liễu Tông Nguyên khi đó đã khen thơ của Liêu Hữu Phương rằng, nhạt nhưng không chán, đơn giản nhưng mỹ lệ, nhẹ nhàng nhưng mạnh mẽ.
Sau khi biết thơ của Liêu Hữu Phương xuất hiện trong tuyển tập thơ Đường, Liễu Tông Nguyên đã thốt lên rằng, một thanh niên xuất thân từ vùng xa xôi, nhưng lại có thành tích như vậy, quả là một chuyện hy hữu. Ngoài ra, Liễu Tông Nguyên còn làm thơ ca ngợi Liêu Hữu Phương sau khi biết hành động trượng nghĩa của Liêu Hữu Phương.
Ngoài việc lưu danh thơ ca, Liêu Hữu Phương còn được sử sách ca ngợi là một người trượng nghĩa và hào hiệp. Theo sách "Thái Bình quảng ký", trước khi đỗ Tiến sỹ một năm (năm Nguyên Hoà thứ 10), Liêu Hữu Phương tình cờ gặp một học sinh nghèo bị bệnh nặng và đang chữa trị tại một quán trọ bên ngoài thành Bảo Kê ở đất Thục, nay là tỉnh Tứ Xuyên.
Sau khi biết tình hình của người này – nhiều lần thi trượt, tiền mất tật mang, hiện không có tiền mua thuốc chữa trị, Liêu Hữu Phương đã dốc hầu bao để lo chữa bệnh cho cậu học sinh không quen biết. Và sau khi người này qua đời vì bệnh tình quá nặng, Liêu Hữu Phương đã bán ngựa cùng bộ yên cương để lo hậu sự. Sau khi an táng xong người xấu số, Liêu Hữu Phương còn làm thơ tặng, bài thơ này đã được lưu danh trong tuyển tập thơ Đường.
Cảm kích trước tấm lòng nghĩa hiệp của Liêu Hữu Phương, người nhà của cậu học sinh xấu số đã tìm mọi cách để báo đáp sau khi biết chuyện, nhưng chàng thanh niên Giao Chỉ nhất mực từ chối. Hành động của Liêu Hữu Phương đã được cả triều đình và người dân khắp nơi tôn xưng là Nghĩa sỹ.
(http://www.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=98488)
*
* *
PHÁT HIỆN MỘ CHÍ MỘT NHÀ THƠ NGƯỜI VIỆT
Tác giả: Lê Hải
Nguồn: Diễn đàn Viện Việt học (Ngày 14-3-2008)
Báo Tin tức buổi chiều Tây An (Tây An vãn báo) của thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc) ngày 25/02/2008 có bài của phóng viên bản báo Hô Diên Tư Chính nhan đề:
" Thi nhân Giao Chỉ bán ngựa chôn hàn sĩ, Mộ chí Đường triều minh giám dật văn xưa" (交趾诗人卖马葬寒士, 唐代墓志印证史料逸闻)
(Dịch tóm tắt như sau:
"Ngày hôm qua, 24/02/2008, ông Trương An Hưng, Phó nghiên cứu viên kiêm Phó trưởng ban bảo quản Viện Bảo Tàng Bi Lâm (quận Bi Lâm, Tây An) thông báo: Bảo Tàng mới vừa phát hiện một tấm mộ chí đời Đường từ dưới lòng đất vùng nông thôn quận Trường An, giáp ranh địa bàn huyện Lam Điền và quận Nhạn Tháp (đều là đơn vị hành chánh trực thuộc thành phố Tây An) và đưa về Bảo tàng cất giữ.
Qua khảo sát bước đầu, tấm mộ chí này có niên đại thời Trung Đường, hình vuông, mỗi cạnh độ 40 cm, khắc tên, quê quán và sơ lược thân thế của mộ chủ là:
LIÊU HỮU HƯƠNG (廖有方), quê quán: huyện Giao Chỉ, thuộc Đại Đường An nam Đô hộ phủ (tức Bắc bộ Việt Nam ngày nay), thời niên thiếu tại Giao Chỉ nổi tiếng văn chương (nguyên văn: văn bút văn Giao Chỉ "文笔闻交趾"), sau lưu học Trung nguyên, đỗ tiến sĩ năm Nguyên Hòa thứ 11, đời Đường Hiến Tông (năm 816 CN), được bổ nhiệm làm huyện lệnh huyện Vân Dương, thuộc phủ Kinh Triệu (nay thuộc quận Trường An, thành phố Tây An), sau làm chức Hiệu thư lang tại triều đình…
Thời còn thanh niên, chưa đỗ đạt, Liêu Hữu Phương có dịp làm quen với nhà thơ nổi tiếng Liễu Tông Nguyên (773-819), và được đại gia họ Liễu đối xử rất trân trọng, hai bên có trao đổi thi văn và Liễu đã từng tán tụng văn thơ của Liêu là "đạt nguyên tắc đại nhã"[1]. Thơ Liêu Hữu Phương được thu thập trong Toàn Đường thi. Một người trẻ tuổi xuất thân từ miền biên viễn mà đạt được thành tích như thế, so với người đương thời quả là hiếm có vậy (一个偏远边疆的青年能有此作为,在当时是不多见的).
Ông Trương An Hưng còn cho biết: "Liêu Hữu Phương không chỉ tài hoa mà còn nổi tiếng là người hào hiệp, có nghĩa khí, được sử sách nêu danh. Sách Thái Bình Quảng Ký còn ghi chép việc Liêu Hữu Phương bán ngựa để lấy tiền an táng một hàn sĩ. Việc xảy ra như sau: năm Nguyên Hòa thứ 10 (815 CN), Liêu Hữu Phương thi rớt tiến sĩ, bèn đi du lịch vào đất Thục, tại một quán trọ bên ngoài thành Bảo Kê, Liêu gặp một anh học trọ nghèo đang bị bệnh nặng ở đó. Người này cho Liêu biết anh ta ôm chí họan đồ, đã nhiều lần ứng thí nhưng đều lạc đệ (rớt), tiền mất tật mang, nay lưu trú quán trọ không tiền chạy chữa. Liêu thương tình bỏ tiền cứu trị, nhưng anh ta bệnh nặng quá không thể qua khỏi. Liêu bèn bán cả ngựa và bộ yên cương để lo hậu sự cho anh ta, sau đó ra đi. Về sau người nhà của anh học trò cảm nghĩa báo tặng rất hậu nhưng Liêu một mực tù chối. Từ đó Liêu Hữu Phương được cả triều đình và nhân dân khắp nơi xưng tụng là Nghĩa sĩ".
(hết đọan dịch bài báo)
( Nguyên văn bài báo trên xem ở:
www.changanren.com)
LIÊU HỮU PHƯƠNG là thi sĩ đời Đường gốc người Việt Nam[2] duy nhất có tên trong Toàn Đường thi, bên cạnh 2352 tên tuổi khác, với duy nhất một bài thơ. Tuy nhiên, Liêu Hữu Phương đích thực là thi sĩ vì ông có ít nhất là một tập thơ, đã từng được đại thi sĩ Liễu Tông nguyên đề tựa, và Liễu Tông Nguyên, trong một bức thư khác đã không ngần ngại gọi Liêu là một thi nhân, hơn nữa một thi nhân hiếm có. Bài thơ của Liêu Hữu Phương như sau:
题旅榇(一作葬宝鸡逆旅士人铭诗)廖有方
嗟君没世委空囊,
几度劳心翰墨场。
半面为君申一恸,
不知何处是家乡 .
Tạm dịch:
Đề trên quan tài nơi quán trọ (còn gọi là: Thơ làm lúc an táng người hàn sĩ nơi quán trọ thành Bảo Kê)[3] (Toàn Đường thi, bài 7, quyển 490)
"Ôi bác từ trần, túi nhẵn không!
Bao phen khoa cử hóa long đong.
Sơ giao luống nặng lòng thương xót,
Quê bác nơi nào mà ngóng trông?."
Bài tựa nhà thơ Liễu Tông Nguyên gởi cho Liêu Hữu Phương như sau:
送诗人廖有方序
交州多南金、珠玑、[4]毒瑁、象犀,其产皆奇怪,至于草木亦殊异。吾尝怪阳德之炳耀,独发于纷葩瑰丽,而罕钟乎人。今廖生刚健重厚,孝悌信让,以质乎中而文乎外。为唐诗有大雅之道,夫固钟于阳德者耶?是世之所罕也。今之世,恒人其于纷葩瑰丽,则凡知贵之矣,其亦有贵廖生者耶?果能是,则吾不谓之恒久也,实亦世之所罕也。
Dịch:
"Giao-Châu có nhiều vàng
Câu chuyện về Liêu Hữu Phương bán ngựa giúp người nghèo có thể tìm đọc trong Thái Bình Quảng Ký, nhưng tốt nhất là đọc trực tiếp trong Vân Khê Hữu nghị của Phạm Sư (vì Thái Bình Quảng Ký chép tóm theo Vân Khê hữu nghị), bạn cùng thời của nhà thơ Phương Can (808-865), ghi chép rất rõ ràng và đáng tin cậy vì Phạm Sư sống cùng thời với Lưu Hữu Phương (truyện Liêu Hữu Phương trong Vân Khê hữu nghị, bản của nhà xuất bản Thương hải cổ tịch năm 2000 là đầy đủ nhất, truyện có tên là Danh nghĩa sĩ, quyển hạ, trang 1305-1306).
(http://www.viethoc.org/phorum/read.php?10,34529,page=1)
*
* *
(Trích trong bài Trò "bịt mắt bắt dế" của ông bà tiến sĩ thời nay)
Tác giả : Minh Di
Nguồn: TinParis
( ) Sau đây là toàn văn (Hán văn) chép về Liêu Hữu Phương trong "Toàn Đường Thi":
"Liêu Hữu Phương.
Liêu Hữu Phương, Giao châu nhân, Nguyên Hòa thập nhất niên tiến sĩ đệ, cải danh Du Khanh, quan Hiệu Thư Lang. Thi nhất thủ.
"Đề Lữ Thấn" tính Kí. Nhất bản đề tác: "Táng Bảo Kê Nghịch Lữ Sĩ Nhân Minh Thi".
Dư Nguyên Hòa Ất Vị tuế lạc đệ, Tây chinh thích thử, văn thân ngâm chi thanh; tiềm thính nhi vi uyển dã. Vấn kì tật khổ, trú chỉ; đối viết: – Tân cần sổ cử vị ngộ tri âm; hệ lại khấu đầu cửu nhi phục ngữ: – Duy dĩ tàn cốt tương thác! Dư bất năng ngôn; nga nhi thệ.
Dư nãi dục sở thừa mã ư thôn hào, bị quan ế chi, hận bất tri kì tính thị. Lâm kì thê đoạn phục vi minh viết:
‘Ta quân một thế ủy không nang!
Kỉ độ lao tâm hàn mặc trường.
Bán diện vị quân thân nhất động,
Bất tri hà xứ thị gia hương?’.
(Toàn Đường Thi. Qu. CDXC)
Dịch như sau:
"Liêu Hữu Phương.
Liêu Hữu Phương, người đất Giao châu, đậu tiến sĩ năm thứ 11 Niên hiệu Nguyên Hòa; đổi tên là Du Khanh; làm quan chức Hiệu Thư Lang. Thơ có một bài "Đề Trên Quan Tài" – kèm theo phần Tiểu dẫn (Kí). Có bản ghi là "Bài Thơ Lúc Chôn Người Học Trò ở Quán Trọ "Bảo Kê".".
Năm Ất Vị Niên hiệu Nguyên Hòa tôi rớt khoa thi, đi về miền Tây, tới đây nghe có tiếng người rên rỉ; lắng nghe thì chừng như có vẻ oán hận. Tôi (tìm đến) hỏi người đó rồi có đau bệnh, hoặc có nỗi khổ gì không, nhà cửa ở đâu; người đó trả lời: "Tôi vất vả cực nhọc trải mấy khoa thi mà vẫn không gặp được người (khảo quan) biết đến tài học của tôi"; ánh mắt lộ vẻ oán giận, ông ta sụp xuống (trước mặt tôi), mọp đầu sát đất một lúc lâu rồi mới nói: – "Chỉ còn nắm xương tàn này xin gởi ông!". (Chỉ có vậy), ngoài ra, ông ta không nói được gì hơn nữa; một lúc không lâu sau đó thì ông ta chết.
Tôi bán ngay con ngựa đang cỡi cho một nhà giàu trong làng, sắm sửa quan tài chôn cất ông ta và giận một nỗi rằng mình vẫn chưa biết tên họ ông ta là gì. Lúc chia lìa đau buồn đó, tôi còn làm một bài thơ để ghi nhớ như sau:
‘Than ôi ông chết có chi đâu!
Thi cử lao đao mấy độ sầu.
Mới biết ông thôi nhưng rất xót,
Quê ông nào biết ở nơi đâu?’.
( )
Gần đây, đọc tập Bút kí "Vân Khê Hữu Nghị" của Phạm Sư (? – ?. "Sư" còn đọc âm "Thư"), sống vào khoảng cuối thời Đường, tôi ngẫu nhiên bắt gặp một đoạn viết về Liêu Hữu Phương. Và trong đoạn văn này cũng đã tự thuật lại chuyện Liêu Hữu Phương gặp người học trò thi rớt ở quán trọ "Bảo Kê", chép trong "Toàn Đường Thi" vừa dẫn trên đây.
Có điều là tự thuật về Liêu Hữu Phương trong tập "Vân Khê Hữu Nghị" nói trên đây phong phú hơn những gì chép lại trong "Toàn Đường Thi" nhiều.
Trước hết, trong một đoạn đầu kể lại câu chuyện Liêu Hữu Phương gặp người học trò thi rớt trong quán trọ "Bảo Kê", Phạm Sư đã có thêm một vài chi tiết như sau:
1). Mở đầu câu chuyện, Phạm Sư viết:
"Liêu Hữu Phương Hiệu thư Nguyên Hòa thập niên thất í hậu, du Thục, chí Bảo Kê tây giới".
(Quan Hiệu thư Liêu Hữu Phương, năm thứ 10 Niên hiệu Nguyên Hòa, sau khi thi rớt, thì đi về qua đất Thục, tới quán trọ Bảo Kê ở ranh đất phía tây).
2). Liêu Hữu Phương gặp người học trò thi rớt ở quán trọ Bảo Kê trong tình cảnh như sau:
"Tiềm thính nhi vi xuyết dã. Nãi ư ám thất chi nội kiến nhất bần bệnh nhi lang".
(Lắng nghe thì đó là tiếng khóc rấm rứt. Và rồi, trong một căn phòng tối tăm, ảm đạm, tôi thấy có một người đàn ông nghèo khổ, bệnh hoạn).
3). Lúc Liêu Hữu Phương hỏi thăm thì người đàn ông này:
"cưỡng nhi đối viết"
(miễn cưỡng trả lời).
4). Và sau đó:
"Nghĩ cầu liệu cứu, thị nhân nga hốt nhi thệ. Dư toại tiện dục sở thừa yên mã ư thôn hào".
([Tôi còn đang] nghĩ cách cứu giúp, trị bệnh cho thì người này bỗng đâu qua đời một thoáng ngay sau đó. Tôi liền bán rẻ con ngựa đang cỡi, luôn cả bộ yên, cho một nhà giàu trong làng).
( )
Nhưng, tự thuật của "Vân Khê Hữu Nghị" về Liêu Hữu Phương đã không chấm dứt ở đó. Lí thú và bất ngờ nhất là những tự thuật tiếp theo đó.
Sau khi chôn cất người học trò thi rớt nghèo khổ, bệnh hoạn ngẫu nhiên mà gặp chỉ một thoáng trong quán trọ "Bảo Kê", Liêu Hữu Phương rời đất Tây Thục. Về sự việc này Phạm Sư đã kể lại như sau:
"Liêu quân tự Tây Thục hồi, thủ Đông Xuyên lộ hoàn. Chí "Linh Hợp dịch", dịch tương nghinh qui tư đệ.
Cập kiến kì thê tố i tái bái, minh yết, tình bất khả nhiệm, bồi hồi thiết từ, hữu đồng thân í. Yêm lưu bán nguyệt, bộc mã giai dụ; xuyết hùng lộc chi trân, cực tân chủ chi phận. Hữu Phương bất trắc hà duyên như thử, tủng thích vưu thậm.
Lâm biệt, kì thê hựu chí, tương biệt bi khấp. Hựu tặng tận tăng cẩm nhất đà, kì giá trị sổ thiên bách lượng. Dịch tương viết lang quân kim Xuân sở mai Hồ Quan tú tài tức kì thê thất chi quí huynh. Thủy tri vong giả Tính Tự. Phục tự bình sinh chi điếu. Sở di chi vật chung bất nạp yên. Thiếu phụ cập phu kiên í bái thượng.
Hữu Phương từ viết: – Bộc vi nam tử, thô sát cổ kim, ngẫu nhiên táng nhất đồng lưu, bất cảm đương tư hậu huệ.
Toại thúc bí nhi tiền. Dịch tương bôn kị nhi tống, phục du nhất dịch thượng vị phân li.
Liêu quân bất cố kì vật, dịch tương cánh bất khiết hoàn, chấp mị các hận đông tây. Vật nãi khí ư lâm dã".
(Vân Khê Hữu Nghị. Qu. IX. Liêu Hữu Phương).
(Liêu Hữu Phương từ Tây Thục trở về, theo ngã Đông Xuyên mà về. Đi tới trạm "Linh Hợp" thì người coi dịch trạm đón Hữu Phương về nhà riêng.
Về đến nhà, vợ người này mặc y phục trắng ra chào, nghẹn ngào, không dằn được nỗi xúc động trong lòng, nói năng ngập ngừng, dáng chừng thân thiết, như người trong nhà. Trong nửa tháng lưu lại ở đây kẻ theo hầu cũng như ngựa của Hữu Phương đều no đủ; những món ngon quí, như thịt gấu, thịt nai rồi chẳng thiếu món nào, tận hết tình chủ khách. Liêu Hữu Phương không hiểu vì duyên cớ nào mà mình lại được tiếp đãi như vậy, lòng cảm thấy vô cùng bứt rứt.
Lúc từ biệt, vợ người này lại khóc nức nở đưa tiễn. Lại còn tặng Hữu Phương gấm vóc, chở đầy một ngựa, trị giá cả trăm, cả ngàn lượng. Người coi dịch trạm nói vào Xuân năm nay, người mà Hữu Phương chôn cất là tú tài Hồ Quan chính là người anh út của vợ ông. Bấy giờ Hữu Phương mới biết Tính, Tự của người chết. Người này lại kể về nỗi đau buồn của người anh vợ. Vật tặng của 2 vợ chồng thiếu phụ Hữu Phương cuối cùng vẫn không chịu nhận. Thiếu phụ và chồng cứ khăng khăng giao tặng.
Hữu Phương từ chối, nói: – Tôi là nam nam tử, biết đôi chút về chuyện xưa và nay, chỉ ngẫu nhiên mà chôn cất nam người cùng giới, tôi không dám nhận những tặng vật quá hậu như vậy.
Nói xong thúc ngựa chạy đi. Người coi dịch trạm giục ngựa theo đưa tiễn. Lại đi hết một trạm nữa mà vẫn chưa nỡ chia tay.
Liêu Hữu Phương không nhận tặng vật, người này cũng không chịu đưa về, níu áo Hữu Phương mà buồn cho cảnh kẻ đông người tây. Gấm vóc tặng Hữu Phương rồi bỏ giữa đồng vắng).
Cuối đoạn văn dẫn trên Phạm Sư nói thêm là các bậc hương lão đem nghĩa cử của Hữu Phương nói cho quan sở tại biết. Quan sở tại trình việc này lên triều đình, và sau đó thì các quan văn võ người nào cũng muốn làm quen với Hữu Phương. Năm sau Liêu Hữu Phương thi đậu, đổi tên là Du Khanh, và thanh danh nghĩa sĩ của ông cũng vang khắp Trung Hoa và cõi ngoài (Hoa Di).
"Vân Khê Hữu Nghị" là một Tập Bút kí (gồm 12 Quyển) ghi chép lại những di văn, dật sự về một số nhân vật tiếng tăm Đường triều, trong giới quyền quí, văn nhân, học giả… mà Sử tịch cũng như các tập Bút kí đương thời, vì nguyên nhân tư liệu, sử liệu thu thập chưa được đầy đủ cho nên đã hoặc không ghi chép, hoặc ghi chép nhưng vẫn còn ít nhiều thiếu sót… như những ghi chép về Nguyên Tái (? – 777), về các thi nhân Lưu Trường Khanh (709 – ~ 780), Vi Cao (745 – 805), và Trương Tịch (765 – ~ 830)… chẳng hạn. (Vân Khê là tên Hiệu của Phạm Sư. Khi tự thuật Phạm Sư thường tự xưng là Vân Khê Tử).
Qua một số tư liệu đã ít, lại chép chẳng bao nhiêu về nhân vật tên Liêu Hữu Phương này, người ta chỉ biết ông là một người học thức, có nghĩa khí, và nhân cách hơn người. Sinh tại Giao Châu, lúc trưởng thành qua Trung Quốc học và làm quan tại đây. Chỉ có bấy nhiêu, ngoài ra nữa người ta không còn biết gì hơn.
Liêu Hữu Phương nhân phẩm hơn người, nếu không văn hào Liễu Tông Nguyên (773 – 819) đã không viết những giòng như sau:
"Giao Châu đa Nam kim, đại mạo, tượng tê, kì sản giai kì quái, chí ư thảo mộc dịch thù dị. Ngô thường quái dương đức chi bính diệu, độc phát ư phân hoa khôi lệ nhi hãn chung hồ nhân.
Kim Liêu sinh cương kiện, trung hậu, hiếu đệ, tín nhượng, dĩ chất hồ trung nhi văn hồ ngoại, vi Đường thi hữu đại nhã chi đạo, chung ư dương đức giả gia? Thị thế chi sở hãn dã. Kim chi thế hằng nhân kì ư phân hoa khôi lệ tắc phàm tri quí hĩ ( kì dịch hữu quí Liêu sinh giả gia? Quả năng thị, tắc ngô bất vị chi hằng nhân dã, thực dịch thế chi sở hãn dã!".
(Liễu Tông Nguyên Tập. Qu. XXV. Tự. Tống Thi Nhân Liêu Hữu Phương Tự).
(Xứ Giao Châu có nhiều vàng
Như Liêu sinh là người cứng cỏi mạnh mẽ, trung hậu, hiếu để, thành thực, khiêm tốn, chất phác hàm bên trong mà văn vẻ lộ ra ngoài; về thơ Đường thì hiểu rõ nguyên tắc của Thơ, phải chăng đây rồi cũng như cái rực rỡ, tươi đẹp kia của sự vật? Đây là điều hiếm có trên đời. Thời bây giờ đối với vẻ rực rỡ, tươi đẹp của sự vật thì người bình thường rồi ai cũng biết quí trọng, và biết có người nào biết quí trọng Liêu sinh [như vậy] không đây? Nếu như có những con người như vậy thì tôi không gọi những người này là những người bình thường, họ thực cũng đáng gọi là những người hiếm có trên đời!).
Ngoài ra, Liễu Tông Nguyên còn một lá thư gởi Liêu Hữu Phương, ghi là:
"Đáp Cống Sĩ Liêu Hữu Phương Luận Văn Thư" (Liễu Tông Nguyên Tập. Qu. XXXIV. Thư).
Liêu Hữu Phương gởi thư nhờ Liễu Tông Nguyên viết một vài lời đề Tựa cho tập thơ của mình, Liễu Tông Nguyên gởi thư này trả lời.
Trong cuốn "An Nam Chí Lược", Lê Tắc (? – ?) đời Trần (1225 – 1400), Việt
(Theo http://74.125.153.132/search?q=cache:4mxScZK18IkJ:www.tinparis.net/vanhoa/vh_TusachMINHDI2_LeHung.html+LI%C3%8AU+H%E1%BB%AEU+PH%C6%AF%C6%A0NG&cd=2&hl=vi&ct=clnk&gl=vn&client=firefox-a)
[1] Nguyên văn "đại nhã chi đạo", tức 3 nguyên tắc trong làm văn là "đạm, giản , ôn", được diễn dịch từ sách Trung Dung là : nhạt mà không chán, đơn sơ mà mỹ lệ, nhẹ nhàng mà lý lẽ mạnh mẽ"- LHN chú.
[2] Theo mộ chí thì quê quán Liêu Hữu Phương là Giao Chỉ thuộc An nam Đô hộ phủ quản hạt, tức là huyện Giao Chỉ, theo Tân Đường Thư thì huyện Giao Chỉ ở cách thành Tống Bình tức Hà Nội hiện nay 40 dặm về phía tây Bắc, vậy thuộc địa bàn thị xã Sơn tây, tỉnh Hà Tây hiện nay.
[3] Một số người dịch bài thơ này cho rằng Bảo Kê là tên quán trọ, thậm chí có người dịch là quán "Gà quý" (the Precious Chicken Inn, như Keith Taylor trong the Birth of Vietnam), kỳ thực Bảo Kê là tên một cổ thành, nay là thành phố Bảo Kê, cách Tây An 150 km về phía tây, giao điểm của đường quốc lộ Thiểm Xuyên và đường sắt Thành-Bảo (Thành Đô-Bảo Kê).
[4] Tôi không biết chữ này là chữ gì, nhưng trong phần phiên âm trong bài của Minh Di ở dưới lại không có chữ này. (Goldfish).
[5] Nhan đề to tôi tạm đặt (Goldfish)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét